Friday, October 22, 2021

Trận Chiến Cuối Cùng (Bảo Định Nguyễn Hữu Chế)

 



TRẬN CHIẾN

CUỐI CÙNG 

Bảo Đinh Nguyễn Hữu Chế


TUYẾN THÉP XUÂN LỘC

(9 tháng 4 - 20 tháng 4, 1975)



 

2021


 

  

 

Thiếu tướng Lê Minh Đảo họp báo tại Mặt trận Xuân Lộc ngày 13.4.75, tuyên bố:

       “I will hold Long Khanh. I will knock them down here, even they bring two divisions or three divisions”

 

(Tôi sẽ giữ vững Long Khánh. Tôi sẽ tiêu diệt họ ở đây,

dù chúng đưa thêm hai hay ba sư đoàn để đánh chúng tôi)

 

 


Thiếu tướng Lê Minh Đảo

Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc

 

 

 

CẢM TẠ

Người viết chân thành cám ơn quí Chiến hữu có bài viết liên quan đến TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG được trích dẫn hay lấy ý để soạn thảo bài viết này.

Người viết đặc biệt cảm tạ:

Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Cựu TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt trận Xuân Lộc,

Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB,

Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 43, SĐ18BB,

Và các Chiến hữu Sư đoàn 18BB,

đã cho ý kiến, kể chuyện, hoặc cung cấp tài liệu để người viết có dịp soạn thảo bài viết.

Người viết chỉ là một lính trận, đã chiến đấu suốt 12 ngày đêm của TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG, viết lại theo những kinh nghiệm cá nhân và đồng đội, dĩ nhiên còn nhiều thiếu sót.

Một lần nữa xin cám ơn tất cả.

Bảo Định Nguyễn Hữu Chế

Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ2/43, SĐ18BB.



I.       VÀO ĐỀ

“Đất đỏ pha thêm màu máu đỏ

Nghìn thu lịch sử mãi ghi tên”

(Đăng Nguyên – Chiều Nhớ Xuân Lộc)

Xuân đã qua, Hè đang đến. Ngày trở nên dài ra và đêm thì ngắn lại. Thỉnh thoảng trời Xuân Lộc đổ cơn mưa rào. Mưa chợt đến rồi chợt đi. Mặt đất ẩm ướt, có lúc lầy lội bùn sình đất đỏ. Không lâu nữa, đất đỏ lại pha thêm màu máu đỏ. Máu của giặc, máu của ta, máu của người dân Việt của cả hai miền Nam-Bắc “da vàng máu đỏ”.

Từ một tháng nay, Xuân Lộc rộn ràng không khí chiến tranh. Tin tức loan truyền nhanh chóng việc thất thủ Ban Mê Thuột, cuộc triệt thoái thất bại của Quân đoàn II, cuộc di tản chiến thuật không thành công của Quân đoàn I. Nhiều chiến binh oai hùng của QLVNCH sa cơ thất thế, tan hàng tại bãi biển Thuận An (Huế), bãi biển Sơn Chà (Đànẵng). Không biết câu thơ của ai đã diễn tả rất đúng trong trường hợp này:

“Lạc nước hai xe đành bỏ phí,

     Gặp thời một chốt cũng thành công”

Một số chuyến bay vội vàng rời sân bay Đànẵng, mắc nạn trên biển Đông, trong vùng biển Sa Huỳnh. Trường hợp điển hình là chiếc trực thăng chở Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1BB (nghe nói hết xăng!), và chiếc chinook của Đại úy Hoàng Bôi, thuộc Sư đoàn 1/KQ bị bắn rớt ở Sa Hùynh. Các tỉnh thành từ Thừa Thiên đến Khánh Hòa bị bỏ ngỏ. Quân CSBV đã vào đến Phan Rang. Phan Rang đã trở thành vùng hỏa tuyến. Đồng bào từ ngoài Trung, từ Cao Nguyên Trung phần trốn chạy Cộng sản, ùn ùn bồng bế nhau vào Nam. Thị xã đất đỏ Xuân Lộc phút chốc trở nên náo nhiệt. Đường phố tràn ngập người dân tỵ nạn. Dân lo âu sợ hãi với nét kinh hoàng lộ rõ trên những khuôn mặt dãi dầu mưa nắng. Lính âm thầm chịu đựng lo bố phòng. Chiến hào được đắp cao. Những vòng kẽm gai chằng chịt được nối thêm. Các ụ chống chiến xa được dựng lên hai đầu thị xã. Mìn, lựu đạn được gài cùng khắp.

Thần chiến tranh sắp vào đến cửa ngõ!

Thế rồi “Trận Chiến Cuối Cùng” đã đến. Đó là trận chiến Xuân Lộc tháng 4 năm 1975.

Đây là trận đối đầu ác liệt, nhưng rất bi hùng giữa Quân và Dân VNCH với quân xâm lăng CSBV. Trận chiến kéo dài suốt 12 ngày đêm. Khởi đầu từ lúc 5 giờ 40 phút sáng ngày 9 tháng Tư năm 1975, khi Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4/CSBV phát lệnh tấn công, và chấm dứt vào lúc 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975, khi Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế, đơn vị cuối cùng xuống núi (Núi Thị), rời Xuân Lộc, và bắt đầu cuộc Hành quân Lui binh.

Xuân Lộc là chiến tuyến cuối cùng bảo vệ Thủ đô Sàigòn, bảo vệ VNCH. Mất Xuân Lộc là mất Sàigòn, mất VNCH! Ai cũng biết điều này. Nhưng làm sao để giữ được Xuân Lộc? Đó là câu hỏi mà Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo, quân và dân Xuân Lộc phải trả lời. Và họ đã trả lời bằng hành động quyết chiến quyết thắng. Chiến thắng Xuân Lộc làm ngạc nhiên mọi người, cả địch lẫn ta. Chiến thắng Xuân Lộc làm nức lòng Quân và Dân Miền Nam. Chiến thắng Xuân Lộc làm lóe lên một tia hy vọng. Dư luận của quân và dân Miền Nam: Giá như có thêm vài Xuân Lộc nữa. Nhưng con én Xuân Lộc đã không làm nên mùa Xuân. Trái lại đất trời Miền Nam đang dần dà chìm đắm trong một màn đêm tăm tối dày đặc. Đã ba mươi lăm năm qua, kể từ khi Xuân Lộc lọt vào tay giặc, kể từ khi Miền Nam bị bọn quỷ dữ miền Bắc thống trị, người dân Miền Nam phải sống trong cảnh xiềng xích đọa đày, mất cả quyền sống làm người, mạng người còn thua mạng chó.

Qua đánh giá của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, của Đồng Minh, và dư luận của công chúng, Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi. Đã có lúc đại đơn vị này bị xem là một trong những đại đơn vị tác chiến kém hiệu năng. Mãi đến năm 1972, sau 7 năm thành lập, trải qua nhiều đời Tư lệnh, Sư đoan 18BB chỉ được tưởng thưởng 1 ADBT với Nhành Dương liễu, nhưng đến năm 1975, Quân kỳ Sư đoàn đã được tưởng thưởng 3 ADBT với Nhành Dương liễu, và vinh dự được mang “Giây Biểu Chương màu Quân Công Bội Tinh” Năm 1974, từ một Sư đoàn yếu kém (1967), đã được bình chọn và tuyên dương là “Đơn Vị Xuât Sắc” của QLVNCH. Nhưng do đâu, nhờ đâu, đại đơn vị này có thời bị chế riễu là Sư đoàn “bù”! (thời còn mang danh hiệu Sư đoàn 10), với sự đánh giá không mấy thiện cảm của Bộ TTM/QLVNCH và Đồng Minh, đã vươn lên như Phù Đổng Thiên Vương ngày xưa dưới thời đại Hùng Vương, khi giặc Ân bên Tàu sang xâm lăng nước ta. Từ một cậu bé ba tuổi vẫn chưa biết nói, vươn vai một cái, thành người cao lớn một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc và đã thắng giặc. Một tướng lãnh Hoa Kỳ, Trung tướng Phillip B. Davidson đã có câu giải đáp: The battle for Xuan Loc produce one of the epic battle of any of the Indochina wars, certainly the most heroic stand Indochina War III…in the final epic stand ARVN demonstrated for the last time that, when properly led, it had the ‘right stuff’ (Trận Xuân Lộc đã tạo nên một trong những trận chiến mang tính cách hùng ca của bất kỳ trận chiến nằo tại Đông Dương; chắc chắn đó là cuộc cố thủ hào hùng nhất trong chiến tranh Đông Dương…bản hùng ca chót của cuộc cố thủ cuối cùng của QLVNCH, một khi được chỉ huy thỏa đáng, thì ‘sức chiến đấu kiên cường.’)

Từ những cánh rừng cao su bạt ngàn xanh ngắt, từ những đồi núi trùng trùng điệp điệp, những khẩu đại pháo được ngụy trang kỹ, loại 75ly, 120ly, 130ly, và hỏa tiễn 122ly của quân Cộng sản Bắc Việt đồng loạt nã hàng ngàn trái đạn pháo vào Xuân Lộc. Trong vòng một tiếng đồng hồ, hơn 2 ngàn trái đạn pháo theo nhau đổ ập xuống thị xã.  Thị xã nhỏ bé của tỉnh Long Khánh rung chuyển như đang trong cơn địa chấn. Ánh chớp đủ màu sắc, xanh đỏ tím vàng. Ánh chớp lóe lên dồn dập, trông chẳng khác nào đêm hội hoa đăng. Ánh chớp xé tan màn đêm u tịch, phá tan bầu không khí ngột ngạt đang bao phủ Xuân Lộc từ hơn một tháng nay.

Trời vẫn chưa sáng. Sương đêm còn dày đặc. Xuân lộc đang say sưa trong giấc ngủ muộn. Bổng nhiên đất trời rung chuyển. Khói súng mịt mù. Lưới đạn đan nhau. Đạn giặc, đạn ta xuyên qua màn đêm, như hàng ngàn hàng vạn vì sao băng. Tòa lâu đài cổ hai tầng tại Núi Thị rung rinh trước cơn bão lửa. Cây anten 292 như muốn gãy sập, nhưng thật kỳ diệu, vẫn can trường đứng vững! và hệ thống truyền tin giữa Tiểu đoàn 2 với Trung đoàn 43, và Sư đoàn, không hề bị gián đoạn. Nhưng với bản tính láo lếu, tên Thủ trưởng chỉ huy cuộc tấn công vào căn cứ Núi Thị, tên E trưởng, tức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trung đoàn 270 của Sư 341 báo cáo rằng cây anten 292 tại Núi Thị đã bị đánh sập ngay trong đợt pháo đầu tiên.

Lúc bấy giờ là 5 giờ 40 phút sáng thứ Tư, ngày 9 tháng Tư năm 1975. Điều mọi người chờ đợi đã đến. Trận đánh bắt đầu.

Đây là trận chiến cuối cùng mang tính quyết định. Sau đó là chấm dứt cuộc chiến. Một cuộc chiến tranh tồi tệ và tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc Việt. Cuộc chiến mà phía chính nghĩa bị thua, kẻ ác và gian tà đã thắng, như lời phát biểu của Thượng Nghị Sĩ John McCain, cựu tù nhân chiến tranh bị giam cầm trong nhiều năm tại nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội), ngay tại sào huyệt của cộng phỉ, mà không sợ mất lòng chủ nhà, nhân một lần viếng thăm. Cuộc chiến do CSBV phát động, do sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Ông ta và đồng bọn tự nguyện làm đội quân tiên phong cho Cộng sản Đệ tam Quốc tế trong mưu toan nhuộm đỏ thế giới! Cuộc chiến kéo dài gần 21 năm (tháng 7/1954-tháng 4/1975). Hồ Chí Minh và đảng cướp của ông ta đã phát động một cuộc chiến tranh vô nghĩa, đã làm tiêu hao hàng triệu sinh linh người dân Việt của cả hai miền. Chưa bao giờ mảnh đất hình chữ S, trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu bị tàn phá khủng khiếp như vậy.

Xuân Lộc là tỉnh lỵ của Long Khánh, được thành lập năm 1957, thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Xuân Lộc là cửa ngõ hướng Đông đi vào Sàigòn, Thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa, là giao điểm của hai trục lộ chính: QL1 và QL20. Thị xã nằm trải dài theo đường QL1, cách Sài Gòn hơn 60 cây số. Hình thể Xuân Lộc như một ấp chiến lược, được bao quanh bằng bờ đê, với những hàng rào kẽm gai. Thị xã có khoảng 30 ngàn dân, diện tích chỉ vài cây số vuông. Phố xá nhỏ hẹp. Đất đỏ, nắng bụi, và mưa bùn. “Đi dăm phút đã về chốn cũ”. Chung quanh thị xã Xuân Lộc là rừng cao su và núi thấp, với nhiều vườn cây ăn trái. Xuân Lộc nổi tiếng loại chôm chôm, chuối và mít, đặc biệt với loại mít tố nữ. Cà phê cũng là một đặc sản của Xuân Lộc, ngon nhất là loại cà phê “cứt chồn”. Hầu hết dân cư là từ phương xa đến lập nghiệp, đa số từ Miền Trung. Mức sống người dân không cao, nhưng không phải sống cuộc đời lam lũ. Họ sinh sống trên một vùng đất màu mở, có nhiều vườn cây ăn trái, nhiều đồn điền cà phê, và đồn điền cao su, nên cũng có của ăn của để.

    Từ bao đời, người dân được sống cuộc đời an lành và bình dị. Chỉ cách xa Thủ đô Sài Gòn hơn 60 cây số, nhưng thị xã Xuân Lộc của tỉnh Long Khánh vẫn chỉ là một tỉnh lẻ, với sinh hoạt bình thản, không vội vàng hối hả như Sài Gòn.

Vào một ngày của tháng 4 năm 1975, một trận ba đào nổi lên, đã phủ ập xuống người dân hiền lành, biến vùng đất nhỏ hẹp chỉ vài cây số vuông thành một lò lửa hừng hực thuốc súng. Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc, tính bình quân, mỗi người dân Xuân Lộc lãnh ít nhất hơn một trái! Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc ngày nay, còn nhiều hơn số đạn pháo quân Việt Minh bắn vào Điện Biên Phủ năm xưa. Tỷ số  quân trú phòng của hai bên đối nghịch cũng tương đương như ở trận Điện Biên Phủ. Nhưng Xuân Lộc vẫn đứng vững, dù sau đó được lệnh phải triệt thoái, nên Xuân Lộc đã bị bỏ ngõ. Quân CSBV tiến vào Xuân Lộc, chỉ là tiến vào một vùng đất hoang vắng!

Xuân Lộc là nơi đặt bản doanh của Sư đoàn 18 Bộ binh, tiền thân là Sư đoàn 10BB. Sư đoàn chính thức được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1965, với cơ cấu được hình thành từ các Trung đoàn Bộ binh 43, 48, 52, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, và các Tiểu đoàn Pháo binh 105ly và 155ly, gồm có 180, 181, 182 và 183, cùng các đơn vị  kỹ thuật.

Kể từ ngày thành lập, Sư đoàn được đặt dưới quyền các vị Tư lệnh:

·         Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, sau này Trung tướng: 5 tháng 6 năm 1965.

·         Chuẩn tướng Lữ Lan, sau này Trung tướng: 20 tháng 8 năm 1965.

·         Đại tá Đỗ Kế Giai, sau này Thiếu tướng: 16 tháng 9 năm 1966.

·         Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ, sau này Thiếu tướng: 20 tháng 8 năm 1969.

·         Đại tá Lê Minh Đảo, từ ngày 4 tháng 4 năm 1972 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn tướng tại mặt trận An Lộc tháng 11 năm 1972, và Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng ngày 25 tháng 4 năm 1975 do chiến công tại mặt trận Xuân Lộc.

 

Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi. Trái lại là một trong vài sư đoàn kém hiệu năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Do nhu cầu quân số, lúc mới thành lập, phần lớn quân số là tân binh quân dịch, một số là lao công đào binh được phục hồi, những quân nhân vi phạm kỷ luật từ các đơn vị bị thuyên chuyển đến. Cũng có tin nhảm: Sư đoàn 10BB là Sư đoàn “Trừng giới”.

Thoạt tiên Sư đoàn mang danh hiệu Sư đoàn 10 BB, với phù hiệu 10 ngôi sao trắng bao quanh ngọn núi Chứa Chan màu xanh thẩm. Đó là ngọn núi cao nhất vùng, có cao độ 837. Núi Chứa Chan còn có tên gọi Núi Gia Ray. Trong những ngày chiến cuộc, BTL/ Tiền Phương/QĐ4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã đặt bản doanh tại đây, do Tướng Bùi Cát Vũ, TLP/QĐ chỉ huy.

           


Theo tính dị đoan của người Việt cũng như người phương Tây, số 10 là con số bù, “number ten”, là con số tượng trưng cho sự xui xẻo, và những điều không may. Ngày 1/1/1967, theo lời đề nghị của Chuẩn tướng Đổ Kế Giai, đương kim Tư lệnh Sư đoàn, Bộ TTM/QLVNCH đã chấp thuận cho cải danh thành Sư đoàn 18BB, với phù hiệu màu xanh nhạt tượng trưng cho màu trời, màu xanh đậm tượng trưng cho màu đất, và cung tên dựa vào truyền thuyết “Nỏ Thần” đời An Dương Vương (208 B.C.) trong lịch sử cổ đại của dân tộc Việt: “bắn một phát, giặc chết hàng vạn người!” (Trần Trọng Kim – VNSL).

Tại Xuân Lộc tháng 4 năm 1975, Cổ Loa Thành là tình đoàn kết gắn bó giữa quân (Sư đoàn 18BB) và dân (cư dân Long Khánh). Nỏ Thần là các loại vũ khí mà quân ta được trang bị: đó là những khẩu súng M-16, M-60, M-72, súng cối 60, súng cối 81, pháo 105ly, và pháo 155ly. Nỏ thần là những trái lựu đạn, những trái mìn chống chiến xa của các chiến binh Miền Đông dũng cảm, giàu kinh nghiệm chiến trường. Tất cả một lòng quyết chiến quyết thắng.

Quân xâm lăng CSBV tung vào trận địa một lực lượng đông gấp 5 lần. Chúng bắn hàng chục ngàn trái đạn đại pháo, sử dụng chiến thuật biển người, liên tiếp mở nhiều đợt tấn công trong suốt 12 ngày đêm, nhưng kết quả, chỉ chuốc lấy thảm bại. Đạo quân xâm lược với hơn 40 ngàn tên, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Cầm, đã để lại tại trận địa hơn 6 ngàn xác chết, 37 xe tăng T-54 và PT-76 bị tiêu hủy. Đại quân của chúng bị chôn chặt bên ngoài vòng đai phòng thủ, để rồi bị ăn pháo và ăn bom! Sự thiệt hại của chúng còn nhiều hơn con số đếm được. Suốt trận chiến 12 ngày, chỉ có vài toán nhỏ bộ đội CSBV đi lạc vào bên trong thị xã, nhưng ngay sau đó đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống làm tù binh.             

II. TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT

A/- PHƯỚC LONG: TRẬN ĐÁNH THĂM DÒ

Vào đầu tháng 1 năm 1975, sau gần một tuần lễ mở cuộc tấn công vào Phước Long, quân CSBV đã làm chủ tỉnh địa đầu miền núi của Vùng 3 Chiến thuật.

Với chính sách “4 không” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, VNCH quyết không để mất một tấc đất nào do tiền nhân để lại cho bọn CSBV xâm lăng. Nhưng QLVNCH trên lý thuyết có khoảng 1 triệu quân nhân phục vụ dưới cờ, chỉ có vài trăm ngàn quân thực sự chiến đấu ngoài mặt trận. QLVNCH phải rải quân giữ đất, giữ dân. Hai Sư đoàn Tổng trừ bị bị cầm chân ở vùng giới tuyến phía Bắc. Các Sư đoàn Bộ binh lo giữ đất và giữ dân vùng trách nhiệm của mình, kể cả các Liên đoàn BĐQ cũng không rảnh tay. Khi Phước Long bị uy hiếp, QLVNCH đã không có lực lượng trừ bị hùng hậu để cứu viện. Đây là điều tối kỵ trong binh pháp. BTL/QĐIII chỉ đưa được 3 Đại đội Trinh sát của 3 Sư đoàn 5, 18, 25, và 2 Đại đội 81/ Biệt Kích Dù.

“Ngày 30 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 3 và 7/CSBV đồng loạt tấn công quận lỵ Phước Bình. Đến chiều thì Bộ Chỉ huy Chi khu bị bắn sập. Lực lượng đang đóng tại đây phải lui về đóng chung quanh phi trường Sông Bé. Bốn chiến xa của CS bị bắn hạ tại cuối vòng đai phi trường…quân CS đã chiếm được núi Bà Rá, nơi đặt trạm viễn liên làm gián đoạn tạm thời các liên lạc với tỉnh lỵ. Sau đó các tiền sát viên CS đặt tại núi này đã điều chỉnh pháo 130ly làm tê liệt hầu hết các pháo đội của QLVNCH thuộc lực lượng phòng thủ.” (Nguyễn Đức Phương – Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập).

(Theo Đại úy Phạm Hữu Đa, ĐĐT/TS18, quân CSBV bắt đầu tấn công vào Phước Long từ ngày 15 tháng 12 năm 1974).

Khi có dấu hiệu quân CSBV điều động lực lượng chuẩn bị đánh Phước Long, Tổng Thống hỏi Đại tá Tỉnh trưởng có cần thêm quân tăng viện, vị Tỉnh trưởng trả lời chưa cần (Một sĩ quan cấp Trung tá thuộc Phòng 3 Tiểu khu cho Đại úy Phạm Hữu Đa, Đại đội trưởng Trinh sát 18 biết như vậy). Đại đội 18 Trinh sát, cùng 2 Đại đội 5 và 25 được trực thăng vận vào Phước Long thay thế Tiểu đoàn BĐQ, 3 tháng trước khi tỉnh này bước vào trận chiến, chính xác là từ tháng 9 năm 1974.

ĐĐ18TS hoạt động khu vực quận Bố Đức mới. Một Trung đội của đơn vị này vào phòng thủ chung với ĐĐ/ĐPQ trong căn cứ. Một Tiểu đoàn quân CSBV di chuyển bằng xe molotova đến bao vây căn cứ. Đơn vị của Đa cùng ĐĐ/ĐPQ đã chiến đấu dũng cảm. Nhờ có pháo binh yểm trợ dồi dào và hữu hiệu, đơn vị giặc bị xóa sổ. Nhưng sau đó trong một cuộc điện đàm, Đại tá Tỉnh trưởng cho biết vì tình trạng khan hiếm đạn dược, pháo binh chỉ có thể bắn tối đa 5 trái một ngày. Cuộc điện đàm bị Cộng quân bắt được (do một nhân viên kiểm thính trên núi Bà Rá nói lại với Đa). Chúng biết quân ta khan hiếm đạn dược, liền điều động 3 Tiểu đoàn vào trận để trả thù, và dứt điểm tuyến phòng thủ bên ngoài của Phước Long. Quân số ít, pháo binh yểm trợ nhỏ giọt, không quân không can thiệp kịp thời, trước nguy cơ bị tiêu diệt, đơn vị trú phòng đành phải rút chạy.

Sáng sớm ngày 3 tháng 1 năm 1975, quân CSBV tấn công vào thị xã Phước Long. Để cứu viện, Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn III cho trực thăng vận 2 Đại đội 81 Biệt kích Dù do Trung tá Thông chỉ huy. Đơn vị cứu viện đến. Nhưng quá ít, và qúa muộn màng!

Ngày 6 tháng 1 năm 1975, lúc 3 giờ 30 chiều, quân CSBV với chiến xa yểm trợ, đã xuất hiện khắp nơi. Nhiều xe tăng giặc bị bắn cháy. Nhiều tên lính “cụ Hồ” bị giết chết. Nhưng thế giặc mạnh, quân giặc đông, vũ khí đạn dược dồi dào, quân trú phòng  ở thế hạ phong, đành phải rút chạy.  Đến 11 giờ đêm thì không còn liên lạc được với Phước Long.

Phước Long đã thất thủ!

Phước Long cách Sàigòn khoảng 110 cây số về hướng Đông – Bắc, bị cô lập từ nhiều tháng. Các cuộc tiếp tế cho thị xã đều phải thực hiện bằng đường hàng không. Trong lúc đó CSBV đã đưa vào đây 3 sư đoàn cùng nhiều đơn vị pháo. Đó là Sư đoàn 3, 7, 9 và bộ đội đặc công, phối hợp cùng lực lượng địa phương và du kích.

Về phương diện quân sự, việc thất thủ Phước Long không quan trọng, nhưng hậu quả tâm lý và chính trị thì thật to lớn.

Ngày 18 tháng 12 năm 1974 tại Hànội, một cuộc họp liên tịch Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, có đại diện các chiến trường Miền Nam tham gia, sau khi phân tích tình hình chính trị và quân sự trong và ngoài nước, tên Thủ tướng muôn năm của Bắc Việt Phạm Văn Đồng phát biểu: “ …Mỹ rút quân do qui định của hiệp định Paris…Ngày nay, nó đem quân can thiệp trở lại là một chuyện không thể có. Có chăng là dùng không, hải quân chi viện…”. Rồi hắn vừa cười to vừa nói: “ Nói chơi cho vui nhưng cũng đúng sự thật là cho kẹo Mỹ cũng không vào”.

Khi được tin chiếm được Phước Long, Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Cộng đảng Bắc Việt nói: “Lần đầu tiên ở Miền Nam, một tỉnh hoàn toàn được giải phóng. Tỉnh đó lại ở gần Sàigòn và mở rộng vùng căn cứ quan trọng của ta ở Miền Đông. Thực tế này nói rõ hơn hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy và nhất là của Mỹ”. Ngày 8 tháng 1, trong một bài diễn văn, Lê Duẩn phát biểu: “ Tình hình đã sáng tỏ. Chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm. Hai năm là ngắn và cũng là dài. Cuộc chiến đấu ở Miền Nam được thực lực mạnh ở Miền Bắc đẩy lên thành sức mạnh cả nước. Bây giờ quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta có sẵn trong Nam…Đây là nội dung của thời cơ, ta phải nắm vững quân sự, chính trị, ngoại giao…”

Về phía VNCH, nguyên Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bữu Viên viết: “Cộng sản trong khi tiến hành việc thử thách ý chí của QLVNCH và đặc biệt để đo lường phản ứng của chính phủ Mỹ đã lựa chọn thật đúng một mục tiêu dễ dàng. Sự thất thủ Phước Long hết sức quan trọng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một tỉnh đã hoàn toàn lọt vào tay cộng sản và đây là một bằng chứng hiển nhiên của sự vi phạm trắng trợn thỏa ước ngưng bắn của Cộng sản…”

Kết thúc hội nghị, Ngày 24 tháng 1 năm 1975, Phái đoàn Miền Nam do Trần Văn Trà làm trưởng đoàn lên đường trở về B2. Nhưng trước đó bọn họ phải đến chào từ giả “Thái Thượng Hoàng” Lê Đức Thọ để nhận chỉ thị cuối cùng: “ Tôi đã đến cuộc họp thường trực Quân ủy Trung ương; đã truyền đạt quyết tâm của Bộ Chính trị là đánh Ban Mê Thuột. Chỉ chấp hành lệnh không thảo luận gì nữa cả”. Trước đó trong hội nghị, Thọ đã đưa ý kiến: “ Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Man Mê Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Ban Mê Thuột là thế nào?”

Bộ Chính trị Cộng đảng Bắc Việt quyết định chọn Phước Long làm trận mở đầu cho kế hoạch tổng tấn công thôn tính Miền Nam, là chọn một mục tiêu dễ dàng, nhưng mang tính to lớn vì là một tỉnh, dù dân số ít hơn xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình của Gia Định (vào thời điểm này, xã Phú Nhuận đã có lối 50 ngàn dân). Dù chỉ cách Thủ đô Sàigòn của VNCH khoảng 110 cây số, nhưng là một tỉnh miền núi, khó phòng thủ, khó ngăn chận những đường địch xâm nhập. Dân cư thưa thớt. Tỉnh địa đầu của Vùng 3 này giáp ranh với Vùng 2 của Cao Nguyên Trung phần. Các con đường bộ dẫn tới Phước Long, từ lâu đã bị các đơn vị cộng quân đóng chốt đắp mô. Việc ra vào Phước Long chỉ còn trông nhờ vào đường hàng không. Phước Long như một ốc đảo nằm giữa biển giặc và biển rừng mênh mông.

CSBV đã chọn mục tiêu dễ, để có thể nhanh chóng thanh toán, hầu đạt được tiếng vang quốc tế.

Đánh Phước Long, CSBV muốn trắc nghiệm phản ứng của Mỹ. Thật ra chúng đã có câu trả lời, như Phạm Văn Đồng nói: “…cho kẹo Mỹ cũng không vào”. Nhưng điều quan trọng hơn hết là đo lường khả năng của QLVNCH. Có dư luận cho rằng Tổng thống Thiệu để cho mất Phước Long là tháu cáy Mỹ. Theo ngôn từ CSBV thì “Thiệu làm mình làm mẩy” với Mỹ. Nhưng có lẽ ta phải đồng ý với lời giải thích của Tổng thống: “ Phải cần tối thiểu hai trung đoàn cho cuộc hành quân nầy và các đơn vị nầy phải được không vận. Với lực lượng địch hiện diện trong vùng, chúng ta chắc chắn phải đối đầu với phản ứng mạnh của địch quân và thiệt hại do đó sẽ nặng nề. Một khi đã chiếm lại được tỉnh nầy, phải cần đến nhiều lực lượng để bảo vệ. Điều này không những làm mất đi di động tính của một số đơn vị mà đồng thời còn tạo ra khó khăn cho vấn đề tiếp liệu. Do đó tốt nhất nên tiết kiệm quân để tăng cường các nơi khác có giá trị hơn về chiến lược”.

B/- BAN MÊ THUỘT: TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN

Sau khi đánh chiếm Phước Long một cách dễ dàng, chúng đã có đáp số. Bộ Chính trị CSBV liền quyết định dứt khoát về kế hoạch thôn tính Miền Nam trong hai năm 1975-1976. Trần Văn Trà đề nghị đánh Ban Mê Thuột, với lý do: “…tấn công Ban Mê Thuột chắc chắn phải là một ngạc nhiên cho ngụy và cũng là nơi chúng không phòng bị…Nếu hậu cần bị mất, địch quân ở tuyến trước sẽ rối loạn và mất tinh thần”.

Nhận định “tấn công BMT là một ngạc nhiên cho ngụy” của Trà cũng giống phán đoán của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Phạm văn Phú. Ông chỉ chú trọng phòng thủ Kontum và Pleiku. Ông không hề nghĩ rằng CSBV sẽ đánh BMT trước. Nhưng Đại tướng Cao Văn Viên và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không nghĩ như vậy. Hai vị chỉ huy cao cấp này không hề bất ngờ. Ông đã báo cho Tướng Phú biết việc Sư đoàn 320/CSBV đang tiến về phía Nam để tấn công Ban Mê Thuột, và chỉ thị Tướng Phú điều động Sư đoàn 23BB trở lại Ban Mê Thuột, đồng thời tăng cường 1 Chi đoàn chiến xa M.48.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, từ lúc 2 giờ sáng, CSBV sử dựng 3 Sư đoàn 316, F10, và 320 tấn công Ban Mê Thuột. Trong vài ngày, Ban Mê Thuột đã thất thủ.

Khi BMT bị đánh, BTL/QĐII của Thiếu tướng Phạm Văn Phú quyết định tái chiếm. Ngày 11.3.75, hai Tiểu đoàn 72 và 96/BĐQ thuộc Liên đoàn 21/BĐQ được trực thăng vận từ Kontum xuống Chi khu Buôn Hô. Nhưng do những sai lầm của Tướng Tư lệnh Sư đoàn 23BB, và do không quân đánh bom lạc vào TTHQ/BTL mặt trận, việc giải cứu gặp nhiều trở ngại. Những ngày kế tiếp, các cuộc hành quân cứu viện của Sư đoàn 23BB cũng không khá hơn. Cuộc chiến tiếp diễn đến ngày 15.3 thì Tổng thống Thiệu ra lệnh di tản. Kế hoạch hành quân tái chiếm BMT đã thất bại.

C/- QĐII: CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN  SỰ SUY SỤP

Mất Ban Mê Thuột, ngày 14 tháng 3, Tổng thống triệu tập một buổi họp tại Cam Ranh. Thành phần tham dự, ngoài Tổng thống, có Đại tướng Cao Văn Viên, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Trung tướng Đặng Văn Quang, và Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Hội đồng tướng lãnh quyết định di tản toàn bộ chủ lực quân của Quân đoàn II về vùng Duyên Hải theo lộ trình Liên tỉnh lộ 7B. Được biết kế hoạch này chỉ liên quan đến quân chủ lực. Nhưng thật là sai lầm! Trong dân có quân. Làm sao có thể bảo toàn bí mật không để cho dân biết như một cuộc hành quân bình thường. Thế là sự hỗn loạn đã có ngay từ khi đoàn quân triệt thoái chưa bắt đầu.

Cuộc Di tản chiến thuật, Triệt thoái hay Lui binh của Quân đoàn II đã thi hành quá vội vàng, thiếu sự chuẩn bị. Các cấp chỉ huy trách nhiệm đã không nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình và địa vật. Con đường 7B đã bỏ hoang phế từ lâu, bị xuống cấp. Nhiều cầu cống hư nát. Tướng Tư lệnh Quân đoàn đã điều khiển cuộc Lui binh từ Nhatrang. BTTM/QLVNCH chỉ ngồi ở Saigòn giám sát. Mặc dầu đạt được yếu tố bất ngờ lúc đầu, nhưng di chuyển chậm do sông núi ngăn trở, do thân nhân và gia đình binh sĩ, cùng dân chúng lẫn lộn giữa đoàn quân. Dân chúng dễ bỏ chạy tán loạn mỗi khi gặp địch ra chận đường hoặc bắn quấy phá. Sự hỗn độn do dân chúng làm lây lan đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Khi Tướng CSBV Văn Tiến Dũng phát hiện, đã cho Trung đoàn 95B và Sư đoàn 320 của Thiếu tướng Kim Tuấn truy kích, đánh chận. Sự tan rã của đoàn quân di tản là không tránh khỏi. Theo ước tính của Bộ TTM/QLVNCH, ít nhất Quân đoàn II bị thiết hại 75% khả năng tác chiến.

“Khoảng 60 ngàn quân chủ lực sau khi về đến Tuy Hòa, chỉ còn lại khoảng 20 ngàn. Năm Liên đoàn BĐQ với quân số khoảng 7 ngàn, chỉ còn lại 900 người. Lữ đoàn 2 Kỵ binh với hơn 100 thiết xa các loại, chỉ còn đúng 13 thiết vận xa M.113.

Trong tổng số 400 ngàn dân vùng cao nguyên chạy lánh nạn CS chỉ có khoảng 100 ngàn người đến được Tuy Hòa”.

(Nguyễn Đức Phương – Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập”.

D/- QĐI: CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN MẤT NƯỚC

“Quân khu I đã hoàn toàn rơi vào tay CS một cách dễ dàng chỉ trong khoảng 10 ngày (19 - 30.3.75). (Nguyễn Đức Phương – CTVNTT).

Cuộc triệt thoái thất bại của Quân đoàn II đã gây ảnh hưởng tai hại lên BTTM/QLVNCH và Tổng thống Thiệu. Các quyết định của vị Tư lệnh Tối cao Quân lực cho lệnh giữ Huế, bỏ Huế, rồi lại ra lệnh giữ Huế quá muộn màng, khiến vị Tư lệnh chiến trường không kịp thời thi hành, đã đưa đến sự suy sụp hoàn toàn các đơn vị thiện chiến và hùng mạnh, gồm các Lữ đoàn của Sư đoàn TQLC, các Sư đoàn Bộ binh 1, 2, 3 và các Liên đoàn BĐQ.

Phước Long chỉ là khúc nhạc dạo đầu, Ban Mê Thuột mới là trận đánh mở màn chính cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Quốc – Cộng.

Nếu chỉ tính từ trận Ban Mê Thuột, từ lúc 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, quân CSBV chỉ mất 50 ngày đêm đã tiến đến Sàigòn, cắm lá cờ máu, đúng ra là nửa máu, nửa bùn xanh dơ bẩn với ngôi sao vàng đã lên màu ten trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.

III. TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU: MẶT TRẬN ĐỊNH QUÁN        

A/- TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

1/- Địch:

-          Trung đoàn 812/QK6.

-          Sư đoàn 7/QĐ4, gồm các Trung đoàn 141, 165, và 209.

-          Đơn vị xe tăng (đếm được 10 chiếc), đơn vị cao xạ phòng không 37ly (phát hiện 2 khẩu).

-          Tiểu đoàn pháo, gồm các loại 120ly, 122ly, 130ly và 122ly.

2/- Bạn:

-          Lực lượng Chi khu Định Quán.

-          Đại đội 377/ĐPQ.

-          Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18BB

Ngày 5 tháng Ba, tại Đồng Xoài, Đảng ủy Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 tổ chức cuộc họp mở rộng, có Lê Đức Anh, Tư lệnh phó Mặt trận, Bùi Cát Vũ, Tư lệnh phó Quân đoàn, tham dự để bàn thảo nhiệm vụ của Sư đoàn  Một trong những nhiệm vụ trọng yếu là xử dụng lực lượng lớn tiến chiếm các vị trí của ta trên đường QL20 từ Bắc Túc Trưng đến Phương Lâm. Quan trọng hơn hết là phải tiêu diệt Chi khu Định Quán. Định Quán là vị trí chiến lược quan trọng của Vùng 3 chiến thuật. Hơn nữa quân CSBV tấn công Định Quán, tiến đánh Lâm Đồng là để hổ trợ cho chiến dịch đánh Cao Nguyên Trung phần của chúng. Chiếm được Định Quán còn mở được hành lang giao liên chiến lược quan trọng cho Quân đoàn 4.

B/- DIỄN TIẾN

Trung đoàn 141/Sư 7 làm nổ lực chính, được sự hổ trợ của Trung đoàn 209 bằng cách đánh quấy rối ở hướng Nam cầu sông La Ngà. Trung đoàn 165 tiến chiếm Phân Chi khu Phương Lâm ở hướng Bắc.

Ngày 6 tháng Ba, 35 xe vận tải molotova vận chuyển Sư đoàn 7 từ Phước Long, đến điểm tập kết tại một vị trí gần sông Đồng Nai.

Trong lúc quân CSBV rộn ràng chuẩn bị chiến trường, Sư đoàn 18BB đưa Chiến đoàn 43 của Đại tá Lê Xuân Hiếu lên Túc Trưng. Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Đổ Trung Chu hành quân hoạt động vùng phía Nam cầu sông La Ngà. Tiểu đoàn 3/43 của Thiếu tá Nguyễn Văn Dư vẫn bảo vệ Chi khu Hoài Đức, bên kia sông La Ngà. Ngày 17 tháng Ba, Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế từ Xuân Lộc, được vận chuyển lên bảo vệ Định Quán.

Định Quán nằm trên QL20, đường đi Đàlạt. Tiểu đoàn ĐPQ/LK của Thiếu tá Làu Vĩnh Quay trấn giữ cầu sông La Ngà (Thiếu tá Quay, Khóa 10 Võ bị Đàlạt, cùng khóa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo). Phía Bắc Chi khu Định Quán là Phân Chi khu Phương Lâm, tiếp giáp với Madagui của quận Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng, do lực lượng NQ bảo vệ.

Các đơn vị ĐPQ và NQ chiếm giữ những cao điểm chung quanh để bảo vệ thị trấn. TĐ2/43 đến Định Quán vào khoảng 5 giờ chiều. Đã quá trễ! Vị Tiểu đoàn trưởng chưa có dịp nghiên cứu địa thế, chưa kịp gặp gở các cấp chỉ huy diện địa, chưa nắm rõ tình hình thực sự của địch, thì 5 giờ sáng ngày hôm sau, trận đánh đã mở màn. Thời gian vừa đúng 12 tiếng. Đơn vị chưa kịp làm quen, chưa sẵn sàng!

Tiểu đoàn bố trí quân trên một ngọn đồi ở phía Tây – Bắc quận lỵ, gần căn cứ Pháo diện địa có 2 khẩu 105ly. Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn được Đại đội Chỉ huy và Công vụ của Trung úy Võ Kim Thạch, Đại đội 2 của Trung úy Võ Văn Mười bảo vệ. Tướng Tư lệnh cho kéo theo đơn vị 1 Trung đội Pháo 105ly, 1 Toán Công binh Chiến đấu. Các Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Văn Hào bố trí quân trong một khu rừng chồi phía Đông, Đại đội 3 của Trung úy Nguyễn Tri Hùng chiếm những ngọn đồi ở phía Tây, và Đại đội 4 của Trung úy Hà Văn Dương ở khu rừng hướng Bắc. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn tăng phái cho Chi khu, bảo vệ quận.

Vào lúc trời vừa tối, toán phục kích của Trung úy Dương nổ mìn claymore và súng tiểu liên M.16. Một tiểu đội giặc lọt vào tuyến phục kích, bị tiêu diệt gọn. Tất cả mặc quân phục và mang phù hiệu cấp bậc bộ đội Bắc Việt. Có tên mang ba sao! Có thể là Hạ sĩ nhất, hay Thượng úy. Lúc quá nữa đêm, Trung úy Hào báo cáo một toán VC trên 10 tên lọt vào tuyến tiền đồn của đại đội. Chúng bảo vệ một tên có vẻ là cấp chỉ huy đi giữa. Tất cả đều bị hạ sát. Tịch thu được một khẩu súng lần đầu tiên gặp. Bình thường giống như một khẩu colt 45, khi dương ra trở thành khẩu tiểu liên. Tịch thu được nhiều tài liệu, nhưng đã không có dịp để đọc, cũng chưa kịp thời gửi về Phòng 2/SĐ!

Các Trung đoàn của Sư 7/CSBV đã vào vùng. Tiểu đoàn 2 và 3/141 vào vị trí lúc 9 giờ 30. Theo Ký sự của Sư đoàn 7 (do nhà xuất bản QĐND, Hànội xuất bản năm 1986), Tiểu đoàn 1/141 gặp phục kích, phải đi vòng. Vậy toán giặc bị Đại đội 4 của Trung úy Dương phục kích là đơn vị thuộc Tiểu đoàn 1/141. Đại đội trưởng ĐĐ7/CSBV Phạm Xuân Thiện dẫn đơn vị đột nhập căn cứ Pháo và đồi 112. Từ sáng sớm, Tiểu đoàn không liên lạc được với căn cứ Pháo bạn. Không biết tình hình bên trong như thế nào. Tiểu đoàn 9/209/CSBV hoạt động phía Nam cũng chạm súng với Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Chu.

Đúng 4 giờ 30 phút sáng, pháo địch dồn dập bắn vào BCH/Chi khu, vào quận đường, vào thị trấn. Sau đợt bắn pháo kéo dài 1 tiếng đồng hồ, quân CSBV mở cuộc tấn công.

Quân trú phòng chống cự mãnh liệt. Trung đội Biệt kích/TĐ sát cánh cùng các chiến binh ĐPQ và NQ chiến đấu rất dũng cảm. Gánh cải lương lưu động vừa đến quận trình diễn đêm hôm qua, tá túc trong quận, cũng xông xáo chiến đấu như những chiến binh thực thụ. Không có súng, họ tiếp tế đạn, thức ăn, nước uống và tải thương. Họ nhanh chóng tìm cách xử dụng súng của những quân nhân bị thương vong để lại. Họ là dân, là nghệ sĩ, không hề biết qua súng đạn, nhưng trong giờ phút lâm nguy, họ cũng bắn súng, cũng ném lựu đạn, lo việc tải thương, đã góp công trong việc chống trả quân thù. Đúng như người xưa nói: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!”

Trung đoàn phó 141/Sư đoàn 7/CSBV Bé Ích Quan bò đến Tiểu đoàn 2, đơn vị mũi nhọn tiến công vào quận. Thấy khó “nuốt”, vì địa thế có nhiều hóc đá. Hắn liền cho tăng cường thêm quân, thêm súng SKZ, súng trọng liên, và gấp rút tổ chức đội hình tấn công.

Tiểu đoàn 2/43 đến tăng cường Định Quán vào buổi chiều, trước giờ tấn công, là một bất ngờ đối với giặc. Thông thường chúng phải học tập, thực tập trên sa bàn, lên kế hoạch hành quân chi tiết.

Suốt buổi sáng, vị trí đóng quân của Tiểu đoàn chỉ bị bắn pháo. Giặc chỉ bao vây, không tấn công. Các Đại đội 1, 3, và 4 nằm tiền đồn bên ngoài cũng trong tình trạng như thế. Chỉ bị bắn pháo. Hai khẩu pháo 105ly kéo theo đã có dịp bắn yểm trợ đắc lực cho quân bạn. Vào lúc quá trưa, các cao điểm chung quanh thị trấn đã thấy xuất hiện lá cờ máu. Tiếp theo cột cờ trong quận cũng thấy ngọn cờ đỏ được kéo lên. Thiếu tá Quận trưởng bị bắt. Trung đội Biệt kích/TĐ biệt phái bảo vệ quận, một số bị thương vong, thành phần còn lại rút chạy về đến Tiểu đoàn. Lợi dụng lúc Tiểu đoàn chưa bị tấn công, Đại đội 3/2 của Trung úy Nguyễn Tri Hùng đang nằm tiền đồn bên ngoài, được lệnh phá vòng vây kéo về phối hợp Đại đội 2 của Trung úy Mười, và Đại đội Chỉ huy của Trung úy Thạch bảo vệ BCH/TĐ. Đại 4 của Trung úy Dương vẫn nằm tại chỗ ở hướng Bắc, và Đại đội 1 của Trung úy Hào ở hướng Đông quận.

Sau khi BCH Chi khu và các cao điểm chung quanh thị trấn thất thủ, Tiểu đoàn 2/43 là vị trí cuối cùng của Định Quán còn đứng vững, nhưng nằm cô đơn giữa biển giặc. Chiếm được quận, địch chuyển hướng tấn công Tiểu đoàn. Mũi tấn công mạnh nhất xuất phát từ hướng Đông – Nam. Đó là tuyến bố phòng của Đại đội Chỉ huy, nơi đặt hai khẩu pháo. Để trả lời các đợt tấn công biển người của quân CSBV, vị Trung đội trưởng pháo cho hạ thấp nòng, trực xạ vào đội hình tấn công của chúng. Những trái đạn chống biển người với hàng ngàn mũi tên bắn chính xác, cùng với tiểu liên M.16, đại liên M.60, và lựu đạn M.26 của bộ binh, đã đốn ngã quân giặc đông như kiến. Nhưng lớp này ngã xuống, lớp khác lại tiến lên. Cảnh tượng giống như khi ta dí ngón tay, giết đàn kiến di chuyển. Một số kiến chết, chúng tản ra, rồi tụ lại tiếp tục. Chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn. Địch bị sát hại rất nhiều. Cứ sau một đợt tấn công thất bại, chúng tạm ngừng, lo tản thương, tái tổ chức đơn vị, lại mở đội hình tấn công đợt khác. Giặc cố dồn quân dứt điểm vị trí kháng cự cuối cùng này. Vị sĩ quan không yểm bay trên chiếc L-19 bao vùng rất tận tụy. Những phi tuần chiến đấu A-37, F-5E, AD-6 thay nhau dội bom lên đầu quân giặc. Thật cảm động khi Tiểu đoàn trưởng hỏi sao không có người thay thế mà từ lúc sáng tới giờ, vẫn là người bạn không quân ấy. Anh bảo những người khác cũng đang bận rộn, chỉ còn lại anh. Giặc sử dụng cả Trung đoàn 141 bao vây tấn công. Tên Trung đoàn phó Bé Ích Quan trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 2/141. Vị trí phòng thủ của Tiểu đoàn 2/43 chỉ có 2 Đại đội Tác chiến và Đại đội Chỉ huy. Cứ sau một đợt bắn pháo tàn bạo, là đợt tấn công biển người. Theo Thiếu úy Nù, Trung đội trưởng pháo tăng phái, hiện định cư tại Tiểu bang Massachusetts, khi kéo pháo theo TĐ2/43, Thiếu tá Nguyễn Tiến Hạnh, Tiểu đoàn trưởng TĐ181PB đã cho mang theo nhiều trái đạn pháo chống biển người. Chính nhờ loại đạn hiếm này được xử dụng tối đa, đã ngăn chận kịp thời những đợt tấn công của giặc.

Trời về chiều, giặc điều thêm quân. Trận chiến trở nên ác liệt. Quân bạn sắp hết đạn. Tình hình trở nên nguy khốn. Vị trí có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào. Vị Trung đội trưởng pháo được mời đến:

“Anh còn bao nhiêu trái đạn chống biển người?

“Hai trái, thưa Thiếu tá.

“Vậy chỉ xử dụng khi thấy địch quá đông. Nhớ phải bắn chính xác vào đội hình tấn công của chúng.

  “Nhận hiểu, Thiếu tá”.

Trong lúc đó máy bay vẫn thay nhau đánh bom. Tiểu đoàn trưởng xin đánh bom gần. Có lúc đã xin đánh ngay trên đầu. Người bạn không quân bay trên cao an ủi:

“Thẩm quyền đừng tuyệt vọng. Tôi sẽ cố điều chỉnh chính xác vào đầu giặc”.

Thật sự vị Tiểu đoàn trưởng cũng hơi tuyệt vọng. Nhưng trách nhiệm quá nặng nề. Là một chiến binh của QLVNCH oai hùng, anh nhất định không để đơn vị lọt vào tay giặc. Cả một Trung đoàn quân CSBV, có xe tăng yểm trợ, đang bao vây tiêu diệt Tiểu đoàn anh. Anh nghĩ, nếu không thoát được, nếu phải chết thì phải chết sao cho xứng đáng!

Những loạt bom đánh gần rơi trúng ngay đội hình tấn công của địch. Giặc chết vô số. Tiếng rên la dậy trời. Chúng đang cầu xin và than khóc: “Bác ơi! Đảng ơi! Con chết mất!” Tuyệt nhiên không hề nghe thấy tiếng “Trời ơi!” hay “Bố Mẹ ơi!”. Những tên lính “Sinh Bắc Tử Nam” này là đội quân tiên phong của Quốc tế Cộng sản. Chúng chiến đấu không phải cho gia đình, cho Tổ quốc Việt Nam, mà cho Bác Hồ và Đảng Cộng sản của chúng. Chúng bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị tẩy não để thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng của Hồ Chí Minh. Lão Hồ khi đến thăm khu lăng mộ của Đức Trần Hưng Đạo, đã hợm hĩnh đề thơ:

“Bác đưa một nước qua nô lệ,

Tôi dắt năm châu đến đại đồng”.

Ta đừng lấy làm lạ khi Phạm Văn Đồng theo lệnh Hồ Chí Minh, thi hành chỉ thị của đảng CSVN, ký văn kiện dâng quần đảo Hoàng Sa cho Trung cộng.

Trong chiến trận, người chiến binh phải chấp nhận thương đau, chấp nhận nổi bất hạnh. Và phút bất hạnh đã đến với đơn vị khi hai trái bom cuối cùng rơi ngay tuyến phòng thủ. Ta với giặc cùng chết. Quân bạn chịu một số tổn thất. Đội hình tấn công của giặc áp sát quân bạn, bị hai trái bom tiêu diệt, tan rã. Lợi dụng lúc giặc bối rối, số sống sót tản mát vào các cụm rừng lân cận, Tiểu đoàn trưởng gọi máy gặp trực tiếp Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo, xin lệnh đưa đơn vị ra khỏi vòng vây. Phối hợp cùng hai đại đội bên ngoài, đơn vị phá vòng vây giặc, di chuyển đến bố trí quân trên một cụm đồi ở hướng Tây.

Suốt ngày chống trả đơn độc. Không có pháo yểm trợ. Tiểu đoàn chỉ trông chờ vào không quân. Nhưng lưới đạn phòng không 12 ly7 và 37 ly dày đặc, đã hạn chế tính chính xác của không quân. Mệt mỏi rã rời, đạn dược cạn, con số thương vong mỗi lúc lên cao. Đơn vị đã mất khả năng chiến đấu nhạy bén. Tại cụm đồi này, Tiểu đoàn trưởng dự định nghỉ ngơi lấy lại sức, sau đó vào lúc nửa khuya sẽ di chuyển về cầu sông La Ngà, nơi có một đơn vị ĐPQ trấn giữ. Đơn vị phải mang theo gần 100 thương vong, di chuyển lối 10 cây số trong vùng rừng núi, trong lúc đó quân địch lại bố trí cùng khắp, không phải là chuyện dễ dàng.

Bản tin buổi chiều đài BBC hôm đó loan tin quận Định Quán thất thủ. Nhưng sau đó, phát ngôn viên chính phủ, Trung tá Lê Trung Hiền họp báo cải chính: “Quận Định Quán chưa mất, hiện quân chính phủ đang tổ chức phản công địch…”

Tin của đài BBC và lời đính chính của phát ngôn viên chính phủ đều đúng. Số là khi Tiểu đoàn 2/43 vào vùng chiều ngày 17 tháng Ba, để thống nhất chỉ huy, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn kiêm Tư lệnh Khu 31 chiến thuật, chỉ thị đặt tất cả lực lượng quân sự tại Định Quán dưới quyền chỉ huy của TĐT/TĐ2/43. Do đó khi Trung tá Hiền nói Định Quán chưa mất thì cũng đúng, vì TĐ2/43 vẫn còn đó, đang nằm tại Định Quán, và Tiểu đoàn trưởng là người chỉ huy mặt trận Định Quán..

Trong lúc đó địch vẫn bám sát, nhưng chưa có hành động nào. Trung đoàn 141 phối hợp cùng Trung đoàn 165, được tăng cường thêm 4 xe tăng. Trong đêm, chúng điều quân bao vây, vòng vây mỗi lúc một khép kín, xiết chặt dần dần.

Đêm đó là một đêm bầu trời đầy sao, có vầng trăng khuyết. Ánh sáng yếu ớt tỏa xuống trần gian, một thứ ánh sáng nhợt nhạt, lạnh lẽo! Từ trên đồi cao, ta có thể thấy rõ ràng địch đang điều quân ở bên dưới. Trông chúng như những con ma đi ăn đêm. Tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng giả chim, giả thú rừng. Nhưng pháo từ Chiến đoàn bắn không tới. Ban đêm máy bay không hoạt động được. Chỉ còn một phương tiện hỏa lực yểm trợ duy nhất là 2 cây đại pháo 175ly ở Xuân Lộc. Nhưng cứ mỗi 5 phút hay lâu hơn mới bắn được một trái, mà độ sai số thì quá lớn, do đó không thể bắn yểm trợ gần quân bạn được.

Lối 9 giờ đêm, Tướng Tư lệnh gọi nói chuyện với Tiểu đoàn trưởng. Ông cho biết vì lời cải chính của phát ngôn viên chính phủ, Tướng Tư lệnh Quân đoàn Nguyễn Văn Toàn quyết định TĐ2/43 phải ở lại Định Quán. Sẽ có quân cứu viện vào ngày mai để mở cuộc hành quân tái chiếm thị trấn Định Quán. Nhưng ngày mai đó đã không bao giờ đến!

Lối 5 giờ sáng, với chiến thuật cố hữu “Tiền pháo Hậu xung”, quân địch có chiến xa dẫn đầu, đông gấp bội lần, đã đè bẹp vị trí bố phòng tạm bợ của TĐ2/43 với vũ khí đã cạn hết  đạn dược. Giặc xông lên, tràn ngập ngọn đồi. Lúc đó TĐT, và vị sĩ quan tiền sát pháo binh đang cố điều chỉnh bắn pháo. Đột nhiên người lính cận vệ la lớn: “Bảo Định! Bảo Định! (danh hiệu truyền tin của TĐT)” Vị TĐT ngước nhìn lên. Một toán bộ đội cộng sản với súng AK đã gắm lưởi lê đang tiến lại gần, khoảng cách rất ngắn. Tiểu đoàn trưởng chỉ kịp hét lên: “Lăn xuống núi!” Và những người lính còn lại chỉ kịp lăn xuống triền dốc, lẫn sâu vào rừng cây. Sau đó tìm cách len lỏi, di chuyển về cầu sông La Ngà.

Sau một ngày vất vả xuyên rừng, buổi chiều ngày 19 tháng Ba, đơn vị về đến cầu sông La Ngà. Tiểu đoàn bố trí chung quanh gầm cầu phía Bắc của con sông. Sư đoàn cho trực thăng tiếp tế lương thực và đạn dược. Trực thăng bốc đi những thương binh. Linh mục cai quản họ đạo sở tại đến thăm. Cha tự giới thiệu là cựu Trung úy Quân đội Quốc gia, từng tham dự trận Điện Biên Phủ, cha tâm sự:

“Chiều hôm kia thấy tiểu đoàn con di chuyển lên Định Quán là cha thấy không xong rồi. Lối một tuần lễ trước đây, cha bị họ đưa vào rừng cho coi một cuộc biểu dương lực lượng. Cha thấy chúng có nhiều quân, nhiều đại pháo, và lối 10 chiếc xe tăng”.

Tin tức của cha phù hợp với báo cáo của Trung úy Hào, ĐĐT/ĐĐ1/2 bố trí quân ở hướng Đông quận lỵ. Buổi sáng khi Cộng quân mở cuộc tấn công Chi khu, trước tuyến bố phòng của đại đội, xuất hiện 10 chiếc xe tăng. Những chiếc xe này chỉ nổ máy, chạy qua chạy lại, mà không tiến vào thị trấn. Hình như chỉ để thị uy, hay chúng sợ không dám vượt qua tuyến bố phóng của quân bạn. Tin này được gửi ngay về Sư đoàn.

Khi Tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn về thăm BTL/SĐ18BB tại Xuân Lộc, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng 2/SĐ thuyết trình cho biết có 10 chiếc xe tăng địch xuất hiện tại mặt trận Định Quán. Tướng Toàn không tin. Ông nói: “Chúng đi đường mô mà đến đó”. TĐT/TĐ 2/43 được gọi đến trình diện. Tướng Toàn đã không có lời bình luận nào khi vị TĐT trình bày những điều mắt thấy tai nghe. Sau này khi đi tù, đọc báo “Quân đội Nhân dân”, tình cờ đọc bài viết về cách vượt sông của những đoàn xe cơ giới và thiết giáp. Có thể là tác giả cường điệu. Chúng chọn những khúc sông cạn, dùng những bó chà, tre nứa và cây rừng cột lại làm cầu phao. Trần Văn Trà viết hồi ký cho biết được Liên Xô cung cấp mấy bộ cầu ghép. Phó phòng Công binh Miền Bùi Hữu Trừ, tức Sáu Nhản báo cáo:

“Tất cả xe pháo đều được đưa qua sông trên phà ứng dụng: giữa là khoang thuyền hiện đại, hai bên là vật nổi tự tạo…”   

Buổi tối hôm đó, Tiểu đoàn đóng quân ngay dưới gầm cầu La Ngà, gần căn cứ Tiểu đoàn/ĐPQ. Thiếu tá Quay rất ưu ái TĐT/TĐ2/43 (Ông là bạn cùng khóa 10 Võ bị Đà Lạt với Tướng Đảo). Vài năm trước, họ đã gặp nhau tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Thiếu tá Quay là Đại đội trưởng Khóa sinh, vị TĐT bây giờ, lúc đó là khóa sinh ĐĐT. Tình thầy trò, tình chiến hữu dễ thân nhau. Nhưng rất tiếc, họ đã không có dịp cùng nhau chống trả quân địch, khi đơn vị ĐPQ này bị đại bại vài ngày sau đó. Khi địch dồn lực lượng tấn công đơn vị này. Thiếu tá Quay đã bị bắt.

Lúc trời gần sáng, TĐ2/43 được lệnh di chuyển về Túc Trưng. Đơn vị vượt sông La Ngà, khúc sông ở phía Đông, cách cầu vài trăm mét. Chỗ này nước cạn, nơi sâu nhất chỉ đến ngực, nhưng dòng nước cũng chảy xiết, nếu không cẩn thận, bị trượt ngã, có thể bị chết đuối,và dòng nước cuốn đi, nhất là khi người lính với balô và súng đạn. Toàn đơn vị hoàn tất cuộc vượt sông, sang đến bờ Nam lúc trời gần sáng. Sau đó di chuyển bộ đến Bộ chỉ huy Trung đoàn. Tại đây đã có sẵn Đại tá Lê Xuân Hiếu và bộ tham mưu của ông chờ đón. Tiểu đoàn được lệnh tập họp để có Tư lệnh Lê Minh Đảo đến thăm. Tướng Tư lệnh đến thăm đơn vị với tình thân của người anh cả đến với đàn em vừa trải qua một cơn sóng gió, rất thân tình và cởi mở. Trước khi lên trực thăng từ giả, ông đến nói nhỏ với tôi:

“Nghe Chế vừa tịch thu được một khẩu súng ngắn, lạ?”

Thấy không thể dấu diếm được, tôi đành nói thật:

      “Dạ đúng vậy”

Tôi đành bảo anh lính cận vệ trình lên cho Tư lệnh. Thật ra tôi định giữ khẩu súng đó làm kỷ niệm.Nó lạ ở chổ, khi xếp lại, trông giống như một khẩu colt 45, nhưng dương ra thì trở thành một khẩu tiểu liên!  

 Buổi sáng hôm đó, Tiểu đoàn được quân xa đưa về Xuân Lộc. Tiểu đoàn nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ của Tiểu đoàn ở Núi Thị.

Trong thời gian gần 20 ngày, trước khi tham gia trận chiến cuối cùng, đơn vị được bổ sung quân số khá đầy đủ. Tiểu đoàn đã đạt đến con số trên 600. Dù đang trong tình trạng khẩn trương, giặc đã gần kề, nhưng đơn vị có một số lớn là tân binh, kể cả sĩ quan từ các khóa chót của Trường Võ Bị Quốc Gia ĐàLạt, nên cần được huấn luyện bổ túc tại chỗ. Việc sinh hoạt chính huấn để hun đúc tinh thần cũng không thể bỏ sót. Dù bận rộn, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo cũng đã đến đơn vị tâm tình với quân sĩ hai lần. Lần nào cũng như lần nào, sau phần lễ nghi quân cách, ông ngồi ở giữa, quân sĩ quây quần chung quanh, tạo thành một vòng tròn. Lối nói chuyện của ông rất lôi cuốn, thân tình và cởi mở.

Trong thời gian này, đơn vị được cung cấp rất nhiều cuộn kẽm gai concertina, mìn chống người và chống chiến xa. Đặc biệt có loại đạn M-79 chống chiến xa, là loại đạn chúng tôi được cung cấp lần đầu.

IV. TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH: MẶT TRẬN XUÂN LỘC

      A/- CHUẨN BỊ CHIẾN TRƯỜNG

Thị xã Xuân Lộc như một ấp chiến lược, chiều dài vài cây số, chạy dọc theo QL1, theo hướng Bắc - Nam; chiều ngang khoảng 1 cây số, theo hướng Đông - Tây. Hầu hết khu vực dân cư, phố xá, các cơ sở hành chánh, trường học và căn cứ quân sự đều nằm hướng Đông. Phía Tây QL1 là rừng cao su, trải dài đến Núi Thị, xa hơn là đèo Mẹ Bồng Con. Khu vực giữa thị xã và Núi Thị không thể là con đường xâm nhập của Cộng quân, nên được giao cho lực lượng diện địa phòng thủ. Vòng cung hướng Đông tiếp giáp với rừng, do lực lượng cơ hữu Sư đoàn đảm nhận. Hai đầu thị xã, Tướng Tư lệnh cho đắp những ụ chống chiến xa. Hàng rào bao quanh thị xã được tăng cường thêm những vòng rào kẽm gai concertina. Một loại kẽm gai vòng ngăn chận xe thiết giáp rất hữu hiệu. Mìn chống chiến xa được cấp phát tối đa, được gài đặt bất cứ nơi nào xe tăng giặc có thể mò đến.

Trong kho đạn của Sư đoàn, có nhiều loại hỏa tiễn chống chiến xa của trực thăng, loại nòng cở 2.75. Đây là loại hỏa tiễn quân CSBV đã xử dụng trong trận chiến An Lộc hồi mùa hè năm 1972. Chúng lấy được từ những kho vũ khí của Quân đội Hoa Kỳ để lại tại Phi trường Quảng Lợi. Ống phóng chỉ là ống nứa chẻ làm đôi với cục pin là đủ. Tầm xa độ vài trăm mét. Đạn đạo không chính xác, nhưng cũng gây thiệt hại đáng kể khi trúng mục tiêu. Tướng Đảo cho mở kho, cung cấp loại đạn này cho quân sĩ, và huấn luyện họ cách xử dụng. Đại đội Trinh sát 18 của Đại úy Phạm Hữu Đa là đơn vị sở đắc thứ này nhiều nhất. Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ BTL/TP và TTHQ/SĐ, bố phòng tại cửa ngõ QL1, từ Cua Heo đi vào thị xã, và các cao ốc bên trong thị xã Xuân Lộc.

Để đề phòng tình huống xấu, Sư đoàn cho thiết lập nhiều căn cứ hỏa lực. Quan trọng hơn hết là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Do địa thế núi cao, tầm quan sát rộng, những khẩu pháo đặt tại đây có thể khống chế khu vực ngã ba Dầu Giây và thị xã Xuân Lộc nằm bên dưới. Ngoài Trung tâm Hành quân tại BTL/SĐ cũ ở hậu cứ, 3 Trung Tâm khác được thiết lập tại Tư dinh Tướng tư lệnh, ở ngã ba Tân Phong ( số 2, gần quận đường Xuân Lộc), và Núi Thị (số 3, căn cứ Tiểu đoàn 2/43). Mỗi vị trí đều được thiết kế đầy đủ thiết bị cho một Trung tâm Hành quân cấp Sư đoàn.

Tiểu đoàn 18 Quân Y và Bệnh xá Sư đoàn di chuyển về căn cứ Long Bình. Thân nhân và gia đình binh sĩ được khuyến khích về Biên Hòa.

“Văn ôn, võ luyện” là điều các đơn vị trưởng luôn bận tâm. Dù chiến trận đang gần kề, quân CSBV đã chiếm hết Vùng 1 và Cao Nguyên Trung phần, bộ đội của chúng đã vào đến Nhatrang, nhưng việc huấn luyện binh sĩ vẫn không hề xao lảng. Các đơn vị vẫn thường xuyên được huấn luyện tại chỗ và sinh hoạt chính huấn. Trong giai đoạn hiện tại, quân CSBV đã thường xuyên xữ dụng xe tăng và xe bọc thép phối hợp cùng bộ binh tấn công ta. Do đó binh sĩ phải được huấn luyện kỹ thuật chống chiến xa, cách sử dụng súng M.72 và XM.202 sao cho chính xác. Đây là 2 loại hỏa tiễn chống tăng rất hữu hiệu. Các đơn vị lại được cấp phát thêm loại đạn M.79 chống chiến xa. Với khẩu súng nhẹ nhàng, lối 3 kg, có tầm bắn xa hơn 300 mét, là vũ khí chống chiến xa tiện lợi.

BTL/Quân đoàn III cho tăng phái đến mặt trận Xuân Lộc 2 khẩu đại bác tự hành 175ly đặt trên bánh xe xích với tầm tác xạ trên 30 cây số.

B/- TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

1/- Địch:

Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy.

imagesCANSID71Hoàng Cầm tên thật Đỗ Văn Cẩm, sinh năm 1920, con nhà nghèo, mù chữ, chỉ biết đọc biết viết sau khi đã vào bộ đội Việt Minh, tham gia lớp học bình dân học vụ. Năm 21 tuổi đi lính khố xanh để kiếm sống, đồn trú tại Lai Châu, sau thuyên chuyển về Hà Nội, rồi đào ngũ, sau đó tham gia Việt Minh. Cuộc đời binh nghiệp của Hoàng Cầm leo lên từ cấp Tiểu đội trưởng (1946) đến cấp Thượng tướng (1987). Trong trận Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209 (còn có tên Trung đoàn Sông Lô) thuộc Đại đoàn 312, Cầm chỉ huy đơn vị đánh chiếm Trung tâm Chỉ huy của Tướng Pháp Christian de Castries. Hoàng Cầm xâm nhập vào Nam năm 1964, được cử giữ chức chỉ huy Sư 9, là đơn vị chủ lực của quân VC, rồi làm phó cho Trần Văn Trà. Ngày 20   tháng 7 năm 1974, Quân đoàn 4 thành lập (còn gọi Binh đoàn Cửu Long), gồm sư 7 và Sư 9, Hoàng Cầm được cử kiêm Tư lệnh Quân đoàn tân lập này.

Người xưa có nói: “Nhân bất học, bất tri lý”. Học vấn là chìa khóa của tri thức. “Nhỏ không học, lớn làm Tướng” là một đại họa cho một đạo quân. Với khoảng 40 ngàn quân trong tay, tiến đánh một đối thủ chỉ có vỏn vẹn 5 ngàn quân. Khi trận chiến mở màn, lực lượng bố phòng chỉ có 2 Trung đoàn (-) là 43 và 48, và Thiết đoàn 5/KB (-), nhưng Thiếu tướng Hoàng Cầm và bộ đội của ông đã không làm nên cơm cháo gì, lại bị thảm bại. Hắn đã nướng ít nhất 10 ngàn quân dưới quyền. Nhưng Hoàng Cầm vẫn được thăng cấp, thăng chức! Thật ra cái gọi là “Quân đội Nhân dân” của CSBV không thể làm khác. Nếu cách chức, lột lon Hoàng Cầm thì hóa ra công nhận thất bại hay sao. Chúng phải nuôi ảo tưởng chiến thắng để đánh lừa nhân dân và quân đội. Chính vì thế, mặt dầu thất bại nặng nề, hằng năm chúng vẫn trơ trẽn làm Lễ Chiến Thắng Xuân Lộc!

Một Quân đội văn minh và tiên tiến như QLVNCH thì ngược lại: Có công thì thưởng, có tội phải phạt. Đó là trường hợp của Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, cựu Tư lệnh Sư đoàn 3BB bị lột lon thành Binh Nhì, bị cách chức khi để mất tỉnh Quảng Trị hồi mùa hè đỏ lửa năm 1972. Mặc dù lúc đó Sư đoàn 3BB do ông chỉ huy không thể đối đầu với đại quân của CSBV với quân số và vũ khí vượt trội, ngang nhiên vượt sông Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị. Nhưng vì là Tướng chỉ huy, ông phải chịu trách nhiệm về sự để mất thành. Ngày xưa, Võ Tánh và Hoàng Diệu đã chết theo thành.

Khi tham gia trận đánh Xuân Lộc, QĐ4 có các đơn vị cơ hữu và thống thuộc như sau:

·         Sư đoàn 6 do Đặng Ngọc Sĩ (Phó Tư lệnh Quân khu) chỉ huy, có các Trung đoàn 33, 274, 812.

·         Sư đoàn 7 do Lê Nam Phong (tên này tính nóng như lửa, ăn nói cộc cằn và thô lỗ) chỉ huy, có các Trung đoàn 141, 165, 209.

·         Sư đoàn 341, khi sát nhập vào QĐ4, được cải danh là Sư đoàn 1, do Trần Văn Trấn (tên này bị quân ta bắt làm tù binh, được trao trả hồi Hiệp định ngừng bắn Paris) chỉ huy, có các Trung đoàn 266, 270, 273.

·         Lữ đoàn 52 Bộ binh.

·         Một Tiểu đoàn pháo 130 ly.

·         Một Trung đoàn và tăng cường thêm 1 Tiểu đoàn pháo phòng không.

·         Trung đoàn 26 xe tăng, có các Tiểu đoàn 21, 22 và 1 Tiểu đoàn vừa từ Miền Bắc vào. Vào những ngày cuối, QĐ4 còn được tăng viện thêm 1 ĐĐ xe tăng.

·         Trung đoàn 95B (vào vùng trước ngày 15.4.75).

·         Sư đoàn 325, có các Trung đoàn 18, 95, 101 (vào vùng ngày 15. 4.75).

·         Liên đoàn 75 Pháo binh.

·         Quân đoàn 2 của Nguyễn Hữu An, có thêm Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do LêTrọng Tấn thống lĩnh (xuất hiện ở Rừng Lá ngày 21.4.75).

 

2/- Bạn:

Sư đoàn 18BB do Chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm Tư lệnh. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo sinh năm 1933 tại Gia Định, tốt nghiệp Khoá 10 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Cuộc đời binh nghiệp của ông bắt đầu từ Sĩ quan Cán bộ Trường VBQGVN, Sĩ quan Tùy viên Tướng Lê Văn Kim, Tiểu đoàn trưởng TĐ1/31/SĐ21BB, Trung đoàn phó TrĐ31/SĐ21BB, Giám đốc TTHQ Quân đoàn IV & Quân khu 4, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng các Tiểu khu Long An, Chương Thiện và Định Tường. Từ Tháng 3/1972 đến tháng 4/1975: Tư lệnh Sư đoàn 18BB. Vinh thăng Chuẩn tướng ngày 1.11.1972, Thiếu tướng ngày 25.4.1975.

Tướng Đảo là một trường hợp hiếm có trong QLVNCH. Ông thăng quan tiến chức không dựa vào chính trị. Cấp bậc Chuẩn tướng do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn lên ve áo trận, do những chiến công hiển hách của Sư đoàn tại mặt trận An Lộc trong năm 1972, khi đại đơn vị của ông nhảy vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5BB để giữ “Bình Long Anh Dũng”. Cấp bậc Thiếu tướng lại do Tổng Thống Trần Văn Hương ký vinh thăng, do những chiến công thần kỳ của Sư đoàn tại Mặt trận Xuân Lộc tháng Tư năm 1975.

Đầu năm 1972, đang là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Định Tường, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 18BB, thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ. Báo chí Sài Gòn dạo đó đã ồn ào về việc bổ nhiệm này. Họ cho rằng Đại tá Đảo chưa từng chỉ huy đơn vị tác chiến (họ đã nói sai), tại sao lại được chỉ huy đơn vị cấp sư đoàn? Nhưng Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật, đã mở cuộc họp báo và tuyên bố, đại ý xin giới truyền thông báo chí hảy chờ trong 6 tháng sẽ có câu trả lời. Đại tá Đảo đã không chờ đến 6 tháng, chỉ một thời gian ngắn sau khi nắm chức Tư lệnh Sư đoàn, ông đã chứng tỏ là một cấp chỉ huy giỏi với tài thao luợc ngoại hạng.

Theo sự đánh giá của của Bộ TTM/QLVNCH và Đồng Minh, Sư đoàn 18BB là một trong vài sư đoàn kém hiệu năng. Nhưng đơn vị này đã nhận được luồng gió mới kể từ khi Đại tá Lê Minh Đảo về giữ chức Tư lệnh. Ông đã dẫn dắt sư đoàn từ yếu kém trở thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH trong giai đoạn cuối: “…the 18th Division proved in the end to be the best division in the Republic of Vietnam Armed Forces”  (…vào giai đoạn cuối, Sư đoàn 18BB đã chứng tỏ là sư đoàn thiện chiến của QLVNCH) (Historical Atlas Of The Vietnam War). Mãi đến năm 1972, Quân kỳ Sư đoàn chỉ được tưởng thưởng 1 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, nhưng đến năm 1975, QK/SĐ đã được tưởng thưởng thêm 3 ADBT với Nhành DL, và được vinh dự mang Giây Biểu Chương màu Quân Công Bội tinh (màu xanh). Ông là một trong số các vị Tướng lên cấp không dựa vào chính trị. Ông cũng là 1 trong 4 vị Tướng được CSBV thả ra cuối cùng sau 17 năm tù cải tạo. Một người bạn Mỹ của ông, Richard Childress, Giám đốc Á châu Sự vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia thời Tổng thống Reagan, đặc trách về Tù binh, thường có dịp làm việc với Nguyễn Cơ Thạch, Ngoại trưởng của Hànội, đã yêu cầu Thạch phóng thích người bạn. Thạch hỏi ai, Childress nói Lê Minh Đảo. Thạch nhăn nhó và lầu bầu: “Đó là một gả cứng đầu” (That’s a tough one). Theo George J. Veith & Merle L. Pribenow II – Fighting Is An Art.

Thiếu tướng Lê Minh Đảo đến định cư Hoa kỳ tháng 4 năm 1993, sau 17 năm tù dưới chế độ Cộng sản bạo tàn. Ông là một trong 4 vị tướng QLVNCH được nhà cầm quyền CS Hànội thả ra cuối cùng ( Ba vị kia là Thiếu tướng Đổ Kế Giai, Chuẩn tướng Lê Văn Thân và Thiếu tướng Trần Bá Di).

Cho đến nay, trên nhiều diễn đàn, trên nhiều quyển sách viết về trận chiến Xuân Lộc (phe ta và phe cộng sản), trong đó không ít là những ngòi bút nổi tiếng, đã viết sai về lực lượng bạn tham chiến tại Xuân Lộc.

Trong suốt 12 ngày đêm của trận chiến, không hề có bóng dáng của Liên đoàn 81/BCND của Đại tá Huấn; không hề có người lính mũ xanh nào của Chuẩn tướng Lân;  Trung đoàn 8/Sư đoàn 5 của Trung tá Hùng thì bố trí quân ở ngoài tuyền phòng thủ của Xuân Lộc, tận Hưng Lộc – Hưng Nghĩa, cách xa ngã ba Dầu Giây lối 3 cây số, mà Dầu Giây thì cách Xuân Lộc hơn 10 cây số. Khi lực lượng bố phòng tại ngã ba Dầu Giây bị quân CSBV tấn công vào ngày 15 tháng 4, Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Khôi có cho xe pháo và đơn vị BĐQ tùng thiết đi giải cứu Chiến đoàn 52 của Đại tá Dũng, nhưng bị chận đứng tại một ngọn đồi ở phiá Bắc Hưng Nghĩa, và quân của Tướng Khôi đã không thể tiến xa hơn. Tại Xuân Lộc, đơn vị BĐQ tham chiến là Tiểu đoàn 82 của Thiếu tá Vuơng Mộng Long, thuộc Liên đoàn 24, vừa di tản từ Cao Nguyên về, và chỉ còn lối 200 tay súng.

Chính xác tại thị xã Xuân Lộc, lực lượng tham chiến gồm có:

·         Trung đoàn 43 do Đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy.

·         Trung đoàn 48 do Trung tá Trần Minh Công chỉ huy.

·         Đại đội 18 Trinh sát do Đại úy Phạm Hữu Đa chỉ huy.

·         Biệt đội Kỹ thuật/Phòng 7/BTTM do Đại úy Phát chỉ huy.

·         Thiết đoàn 5 Kỵ binh do Trung tá Trần Văn Nô chỉ huy.

·         Pháo binh Sư đoàn: Tiểu đoàn 180 (155ly), và các TĐ/Pháo 105ly: 181, 182, 183.

·         2 khẩu đại bác tự hành 175ly của PB/QĐIII tăng phái.

·         Tiểu đoàn 82/BĐQ do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy.

·         Lữ đoàn 1 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy (được trực thăng vận vào Xuân Lộc kể từ ngày 12 tháng 4).

·         Các đơn vị ĐPQ và NQ/LK tại Xuân Lộc của Đại tá Phạm Văn Phúc.

 

        Chiến đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, gồm Trung đoàn 52 (trừ Tiểu đoàn 2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út xuất phái cho Xuân Lộc từ đêm 11.4, và đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43BB), Chi đoàn 2/5 TK của Đại úy Vũ Đình Lưu và 1 Chi đội Chiến xa, Tiểu đoàn 182 Pháo binh Sư đoàn của Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước, Trung đội Hỏa tiễn TOW, và 1 Toán Công binh Sư đoàn. Nhiệm vụ của CĐ52 là hoạt động bảo vệ an ninh QL20 từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân, nằm ngoài tuyến phòng thủ Xuân Lộc.

Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Dương Trọng Khoát hoạt động vùng Núi Ma, vào hệ thống truyền tin của CĐ52, nhưng hoàn toàn độc lập với Chiến đoàn. Do đó khi CĐ52 bị quân CSBV tràn ngập, phải bỏ phòng tuyến chạy về Trảng Bom, đơn vị này vẫn giữ vững vị trí cho đến đêm 20.4. Khi có lệnh triệt thoái, ĐĐ43/TS đã cùng di chuyển một lúc với TĐ2/43, nhưng theo hướng Tây về Trảng Bom.

Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế hoạt động vùng Núi Thị, cách xa thị xã Xuân Lộc hơn 3 cây số về hướng Tây. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn là bảo vệ căn cứ hỏa lực gồm 2 Pháo đội 105ly và 155ly, đồng thời chận đứng quân CSBV xâm nhập từ hướng Suối Tre ở phía Bắc và hướng đèo Mẹ Bồng Con ở phía Tây. Khi Xuân Lộc được lệnh triết thoái, Tiểu đoàn 2/43 có nhiệm vụ đánh nghi binh và chận hậu. Do đó đơn vị này vẫn nằm tại chỗ, hoạt động bình thường cho đến khi có lệnh rút. Lúc đó là 3 giờ sáng ngày 21.4.

Khi quân CSBV nổ súng tấn công thị xã Xuân Lộc, Tiểu đoàn 2/48 của Thiếu tá Đổ Duy Luật đang đồn trú tại tỉnh Bình Thuận của Đại tá Trần Bá Thành, bảo vệ an ninh cho thị xã Hàm Tân, và chỉ được kéo về vào buổi chiều ngày hôm sau.

Như vậy, lực lượng trú phòng chì là một sư đoàn (-) Tỉ lệ là 1/3. Trong dân gian có câu: “Ba đánh một, không chột cũng què!” Nhưng oái ăm thay, bên một đã không chột, cũng không què, mà đã tạo nên chiến thắng oanh liệt, khiến đồng minh phải nể phục, kẻ thù phải khiếp sợ. Bên ba thì ôm đầu máu! Chỉ trong vài ngày đầu của trận chiến, đã có hàng ngàn cán binh cộng sản đền tội.

Tại xuân Lộc trong suốt trận chiến 12 ngày đêm, hoàn toàn không có sự tham chiến của LL 81/Biệt cách, TQLC và Liên đoàn 7/BĐQ. Chỉ có Tiểu đoàn 82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long với lốì 200 tay súng, sau khi vừa di tản từ Cao Nguyên xuống. Lữ đoàn 3/Xung kích và Trung đoàn 8 thì chỉ bố trí quân từ Trảng Bom đến Hưng Lộc, cách xa mặt trận Xuân Lộc trên 14 cây số!. Hai đơn vị này, nếu hoạt động hữu hiệu như lời của Tướng Khôi, thì Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng đã không bị tan hàng chiều ngày 15 tháng 4. Nếu CĐ52 không bị tan hàng, thì cộng quân vẫn còn bám Xuân Lộc, và cục diện của cuộc chiến đã khác.

C/- PHỐI TRÍ LỰC LƯỢNG

Phóng Đồ Kế Hoạch Điều Quân Mặt Trận Xuân Lộc

(Trần Đỗ Cẩm)

(Tại mặt trận Ngã ba Dầu Giây, chính xác là Chi đoàn 2/5/TK của Đại úy Vũ Đình Lưu)

1/- Địch:

·         Sư đoàn 6/CSBV do Đặng Ngọc Sĩ, Phó Tư lệnh Quân khu 7 chỉ huy. Từ những cánh rừng vùng Tánh Linh và Hoài Đức, vượt qua QL1 (khu vực Rừng Lá), vượt qua LTL.2 (Xuân Lộc – Bà Rịa), nhanh chóng di chuyển xuyên qua đồn điền cao su Ông Quế, tiến về hướng Bắc, Sư đoàn này tung các đơn vị áp sát QL1 tại vùng ngã ba Dầu Giây. Chỉ huy sở Sư đoàn đặt tại Suối Râm, cách ngã ba Dầu Giây 9 cây số về hướng Nam:

-          Trung đoàn 274 chiếm đèo Mẹ Bồng Con, một phần ấp Trần Hưng Đạo, tổ chức hệ thống kiềng chốt để ngăn chận quân bạn từ ngã ba Dầu Giây hay từ Xuân Lộc.

-          Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu, tổ chức hệ thống kiềng chốt đến xã Hưng Lộc.

-          Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị.

-          Sư đoàn có 2 khẩu DKZ, 3 khẩu pháo 105ly và 2 khẩu cối 120ly, bố trí cách ngã ba Dầu Giây 5 cây số về hướng Nam, tại vùng Suối Bi, Suối Hòn.

·         Sư đoàn 7/CSBV do Lê Nam Phong chỉ huy. Từ những cánh rừng cao su vùng đồn điền An Lộc, tiến sát thị xã Xuân Lộc ở hướng Đông – Nam:

-          Trung đoàn 165 áp sát vòng đai thị xã ở hướng Đông – Bắc, tiến đánh khu vực hậu cứ Sư đoàn 18BB và các đơn vị thống thuộc.

-          Trung đoàn 209 áp sát hướng Đông - Nam. Tiến chiếm sân bay thị xã và Tòa Hành chánh Tỉnh. Đơn vị này bị Tiểu đoàn 82/BĐQ chận lại, không tiến lên được.

-          Trung đoàn 141 làm lực lượng trừ bị. Nhưng bước qua ngày 10.4, tên Tham mưu trưởng Sư đoàn đã sử dụng đơn vị trừ bị này và Tiểu đoàn Phòng không vào chiến đấu. Trung đoàn 141 phối hợp cùng Trung đoàn 165 tiến đánh hậu cứ SĐ18BB, hậu cứ Thiết đoàn 5 Kỵ binh và hậu cứ Trung đoàn 52. Nhưng chúng đã bị các chiến binh 18 chận đứng từ bên ngoài.

·         Sư đoàn 341/CSBV do Trần Văn Trấn chỉ huy. Từ những cánh rừng cao su đồn điền Bình Lộc, di chuyển áp sát thị xã ở hướng Bắc. Chỉ huy sở Sư đoàn đặt tại vùng Suối Đá Bàn trong đồn điền Bình Lộc, cách Xuân Lộc lối 6 cây số về hướng Bắc, nhưng Sư trưởng Trần Văn Trấn đi theo cánh quân Trung đoàn 266 tiến chiếm thị xã:

-          Trung đoàn 266 áp sát Cua Heo, tiến qua làng TPB, đánh khu bến xe Long Khánh, chợ Xuân Lộc, và tư dinh Tỉnh trưởng.

-          Trung đoàn 270 áp sát Núi Thị, tiến đánh TĐ2/43 đang bảo vệ căn cứ hỏa lực gồm 12 khẩu pháo binh Sư đoàn.

-          Trung đoàn 273 làm lực lượng trừ bị.

2/- Bạn:

·         Chiến đoàn 43: Phòng thủ thị xã Xuân Lộc.

-          Tiểu đoàn 3/43 do Thiếu tá Nguyễn Văn Dư chỉ huy, phối hợp với các đơn vị Chiến xa và Thiết kỵ của Thiết đoàn 5 Kỵ binh, phòng thủ từ Trại Huỳnh Văn Điền (Hậu cứ Trung đoàn 52), vòng ra phía Đông, vòng đai bên ngoài hậu cứ Sư đoàn và hậu cứ các đơn vị.

-          Tiểu đoàn 2/43 do Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, trấn giữ cao điểm Núi Thị, cách thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây, nằm bên ngoài tuyến phòng thủ của Xuân Lộc, vào hệ thống truyền tin trực tiếp với Sư đoàn.

-          Tiểu đoàn 1/43 do Đại úy Đổ Trung Chu chỉ huy, biệt phái Trung đoàn 48 (sau khi Xuân Lộc bị tấn công, Tiểu đoàn 2/48 từ Hàm Tân (tỉnh Bình Tuy được trả về), thì đơn vị này trở lại với Trung đoàn.

-          Thiết đoàn 5 Kỵ binh (- Chi đoàn 2/5 Thiết kỵ và 1 Chi đội Chiến xa M-41).

-          Tiểu đoàn 82/BĐQ do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy, bố trí quân tại sân bay thị xã.

-          Đại đội 43 Trinh sát do Trung úy Dương Trọng Khoát chỉ huy, hoạt động vùng Tây – Nam Núi Ma, vào hệ thống truyền tin của Chiến đoàn 52.

·         Chiến đoàn 48: Hoạt động bảo vệ an ninh QL1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray. Ngày 12.4.75, Trung đoàn 48 bàn giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, sau đó di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong đến Long Giao, làm lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.

-          Tiểu đoàn 1/48 do Thiếu tá Trần Cẩm Tường chỉ huy.

-          Tiểu đoàn 2/48 do Thiếu tá Đổ Duy Luật chỉ huy.

-          Tiểu đoàn 3/48 do Thiếu tá Nguyễn Phúc Sông Hương chỉ huy.

-          Đại đội 48 Trinh sát.

-          Các đơn vị yểm trợ.

·         Chiến đoàn 52: Hoạt động bảo vệ an ninh QL20 từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân.

-          Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú chỉ huy, bố trí quân tại ngã ba Dầu Giây.

-          Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy. Đêm 11.4.75, Tiểu đoàn được lệnh di chuyển vào Xuân Lộc, vào hệ thống chỉ huy của Chiến đoàn 43.

-          Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ chỉ huy, trấn giữ đồi Móng Ngựa.

-          Đại đội 52 Trinh sát

-          Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ và 1 Chi đội CX/M-41 do Đại úy Vũ Đình Lưu chỉ huy.

-          Tiểu đoàn 182 Pháo binh do Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước chỉ huy.

-          Trung đội Hỏa tiễn TOW.

-          Một toán Công binh

-          Đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân Long Khánh.

·         Đại đội 18 Trinh sát: do Đại úy Phạm Hữu Đa chỉ huy, bố trí quân trên các cao ốc, khu vực trường học và nhà thờ. Một Trung đội lập tuyến phòng thủ tại cổng số 1, một Trung đội bảo vệ BTL/TP và TTHQ/SĐ đặt tại Dinh Tướng Tư lệnh.

D/- DIỄN TIẾN

1/- Từ ngày 9 đến 11.4.1975:

Tờ mờ sáng ngày 9 tháng Tư năm 1975, quân CSBV bắn vào thị xã Xuân Lộc hàng ngàn trái đạn pháo. Pháo rơi vào khu dân cư và bệnh viện, khu trường học, nhà thờ và chùa chiền, khu bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc. Một số đạn pháo rơi vào các trại gia binh, hậu cứ các đơn vị Sư đoàn và Tiểu khu Long Khánh. Nhưng pháo giặc chỉ gây thiệt hại nhẹ cho quân trú phòng. Bởi vì tất cả các chiến binh Sư đoàn 18BB đang nằm trong các chiến hào trên tuyến phòng thủ bao quanh thị xã.

Tư dinh Tướng Tư lệnh trúng pháo. Pháo giặc rót vào như mưa, cùng khắp, kiểu như vãi trấu. Không một thước đất nào của thị xã Xuân Lộc là không bị đạn pháo giặc cày nát. Một số đạn xuyên qua mái nhà. Ngôi nhà hai tầng lầu, mái ngói. Một trái đạn rớt xuống ngay phòng ngủ. Nhưng thật may mắn! Ông Tướng không có ở trong nhà. Ông đang ở BTL/SĐ tại Long Bình. Tưởng cũng nên biết, khi Sư đoàn 18BB nhảy vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5BB của Tướng Lê Văn Hưng, đơn vị đã đặt BTL/Tiền Phương tại căn cứ Long Bình. Các đơn vị yểm trợ và tiếp liệu của Sư đoàn cũng dời về Long Bình để tiện việc ra vào An Lộc bằng cầu hàng không. Sau đó khi hết nhiệm vụ ở An Lộc, Sư đoàn 18BB trở thành lực lượng cơ động của Quân đoàn III, hành quân hoạt động cùng khắp lãnh thổ Vùng 3 Chiến thuật. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo đã trình xin Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, được tiếp tục xử dụng một phần căn cứ Long Bình. Từ đó Hậu cứ Sư đoàn với các Phòng Ban, và cơ sở Tiếp vận đều di chuyển về đây. Hậu cứ BTL/SĐ tại Long Bình được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Huỳnh Thao Lược, Tham Mưu Trưởng Sư đoàn. Vào những ngày biến động, chuẩn bị trận chiến, Xuân Lộc chỉ là nơi đặt BTL/Tiền Phương Sư đoàn. Tướng Lê Minh Đảo thường xuyên đi về giữa Tiền phương (Xuân Lộc) và Hậu cứ (Long Bình).

Buổi chiều ngày hôm trước, nghe tin Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn III tử nạn, ông bay về Biên Hòa để xem hư thực về cái chết của Tướng Hiếu. Đồng thời ông cũng ghé lại Hậu cứ Sư đoàn gặp Đại tá Lược, để biết rõ hơn về thực trạng tiếp liệu của đơn vị. Ông đã nghỉ qua đêm tại đây. Vào lúc quân CSBV bắn pháo và mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, ông được Đại tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng Hành quân Sư đoàn báo cáo. Ngay tức thì, ông bay vào Xuân Lộc, có mặt tại Trung tâm Hành quân Sư đoàn vừa di chuyển đến ngã ba Tân Phong, gần quận đường Xuân Lộc.

Quân CSBV ấn định giờ “G” tấn công là 5 giờ 30. Nhưng tại Chỉ huy sở Sư đoàn 341, 10 phút trước khi khai hỏa pháo, các Tiền sát viên pháo cộng sản thấy sương mù chưa tan, vẫn còn dày đặc. Màn sương hạn chế tầm quan sát, nên xin trễ lại 10 phút. BTL/Quân đoàn 4 của Thiếu tướng Hoàng Cầm chấp thuận. Đúng 5 giờ 40 phút sáng, Quân đoàn phát lệnh. (Theo George J. Veith & Merle L. Pribbenow II – “Fighting Is An Art”).                                                 

Các đơn vị pháo Quân đoàn 4/CSBV đồng loạt nổ súng. Hàng ngàn trái đạn pháo đủ loại trút xuống vùng đất nhỏ, diện tích chỉ vài cây số vuông. Trận mưa pháo dữ dội và tàn bạo, có tính cách hủy diệt. Pháo bắn liên tục, dồn dập đúng 1 tiếng đồng hồ. Hai trái pháo hiệu màu đỏ bắn lên trời cao, lóe lên, xuyên qua màn sương sớm. Tín hiệu tấn công đã phát đi.

a/- Góc chiến trường hướng Đông:

·         Sư đoàn 7/CSBV:

Sư đoàn để Trung đoàn 141 làm lực lượng trừ bị, đồng thời cầm chân Chiến đoàn 48 đang hoạt động trên QL1, vùng ngã ba Tân Phong, tung 2 Trung đoàn tấn công Xuân Lộc bằng 2 mũi:

1.      Mũi tấn công của Trung đoàn 165:

Đơn vị này có xe tăng và bộ đội đặc công dẫn đường tấn công vào hướng Đông thị xã. Chiếc xe tăng T-54 đầu đàn trúng mìn, nổ tung. Quân trú phòng với M-16, M-60, đại bác 90ly của chiến xa đồng loạt nổ súng. Pháo từ Núi Thị bắn chận, ào ạt phá tan đội hình tấn công của giặc:

“Trúng ngay chiếc tăng T-54 rồi. bây giờ chiếc xe đã bị lật, nằm ngang trên ụ đất phía ngoài vòng đai…”

Tiếng báo cáo oang oang trên máy PRC-25 của Trung úy Pháo binh Đinh Văn Phùng tại chiến tuyến cho Đại úy Nguyễn Hữu Nhân, Pháo đội trưởng PĐA đang sát cánh cùng Trung đội 1A của Trung úy Trung tại Núi Thị, đã làm nức lòng quân bạn, làm phấn chấn tinh thần các chiến binh trong giờ phút sinh tử. (Theo Pháo thủ Nguyễn Hữu Nhân – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân Lộc Long Khánh).

Khi mặt trời lên, máy bay chiến đấu của Sư đoàn 3/KQ/QLVNCH cất cánh từ Phi trường Biên Hòa bắt đầu can thiệp. Những phi tuần A-37, F-5E thay nhau trút bom lên đầu giặc. Đám bộ đội CSBV xâm nhập, vượt qua được vài hàng rào kẽm gai thì vướng  mìn banh xác. Đám bộ đội “cụ Hồ” đang lúng túng trong các bãi đất trống trải thì bị lưới đạn dày đặc của quân trú phòng bắn chận, chết phơi thây! Đám giặc ở tuyến sau thì nằm im bất động, nét mặt sợ hãi, ngơ ngác, chỉ muốn tìm cách chém vè! Chúng như con cá nằm trên thớt, đang chờ những nhát dao thành thạo của người nội trợ! Sau những loạt đạn pháo, là những đợt bom của không quân. Bom pháo thay nhau trút lên đầu giặc. Một số xe tăng bị trúng bom đạn cháy hoặc đứt dây xích, lúng túng, quằn quọai trong vũng lầy. Quân CSBV đã bị vướng vào “hàm cá mập”, không cách nào thoát ra được. Càng cố vùng vẫy, càng bị nuốt gọn!

Đợt tấn công đầu thất bại, giặc tổ chức đội hình mở đợt tấn công lần thứ hai. Nhưng các tay súng Chiến đoàn 43 đã chờ sẵn. Với loại hỏa tiễn 2.75 gắn trên dàn phóng tự tạo, phối hợp cùng pháo binh Sư đoàn, máy bay ném bom của Sư đoàn 3/KQ, xe tăng và bộ đội CSBV đang phơi mình trên vùng đất trống trải trước phòng tuyến, chỉ là món đồ chơi trẻ con. Trong một thời gian ngắn, 4 chiếc xe tăng của giặc đã bị tiêu hủy, rất nhiều bộ đội “cụ Hồ” bị phơi thây. Mũi tấn công này của Trung đoàn 165 đã bị chận đứng, đã thất bại hoàn toàn: “Sư trưởng Nam Long hét vào điện thoại chỉ huy hết mũi tiến công này đến mũi tiến công khác. Ông đang chỉ huy trận đánh mà nói năng rất tếu. Sư trưởng điện cho anh Đình chính trị viên D2 (tiểu đoàn 2): ‘Cái chốt bằng cái l. trâu ấy mà một ngày rồi các anh không ăn được à? Tôi ra lệnh nội đêm nay phải ăn cho hết cái l. trâu đó, nghe rõ chưa!’. Câu ra lệnh làm mọi người trong hầm chỉ huy ôm bụng mà cười”. (Ngô Minh, Sư đoàn 7/QĐ4 “Kể Về Trận Tấn Công Cứ Điểm Xuân Lộc).

2.      Mũi tấn công của Trung đoàn 209:

Từ QL1 ở hướng Đông, có xe tăng và bộ đội đặc công dẫn đường, Trung đoàn 209/Sư 7 tiến về hướng sân bay thị xã. Nhưng đơn vị này gặp Tiểu đoàn 82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long chận lại:

“Khi chiếc PT-76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại 181 Pháo binh Sư đoàn 18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, ‘Biệt Động! Sát!’ ‘Biệt Động! Sát!’ Chiếc xe tăng đầu tiên lãnh trọn một quả M.72. Chiếc PT-76 xấu số cháy bùng. Những anh bộ đội Cộng sản tùng thiết rút lui trối chết về hướng rừng lau”.

“…Ngày qua ngày, …những tổ chống tank 3 người của TĐ82/BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T-54 này đến con cua T-54 khác.” (Thiếu tá Vương Mộng Long – Tháng Tư Lại Về).

Sau nhiều ngày vừa đi vừa chiến đấu để vượt thoát từ Cao Nguyên Miền Trung về, Tiểu đoàn 82/BĐQ chỉ còn khoảng 200 tay súng . Dù quân số ít, đang mệt mỏi, nhưng họ đã chiến đấu rất dũng cảm. Đơn vị này đã chống đở 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 209/CSBV có xe tăng yểm trợ. Đó là TĐ5 và TĐ7 bốn lần tấn công vào sân bay, nhưng không thành công. Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã đánh giá cao đơn vị này.

“Tiên Giao (Thiếu tá Long) đây Hằng Minh (Tướng Đảo) gọi”

“Hằng Minh, Tiên Giao nghe”

“Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu, hết cục cựa! Okay?”

“Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa”

“Okay! You’re a man! Don’t let ‘em run away! Okay?”

“Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy”

“Kill ‘em! Kill ‘em Okay!”

“Vâng! Đây là cái tank thứ hai, ba…đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé”

    “Okay! I like the way you fight!”

    “Vâng, tôi nghe rõ 5”

    “You’re great! You’re excellent!”

(Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long – Tháng Tư Lại Về)

Điều đặc biệt của Tướng Đảo, mỗi khi có một đơn vị chạm địch từ cấp Đại đội trở lên, ông liền bay trực thăng C&C bao vùng. Từ cao nhìn xuống, ông có cái nhìn chính xác vị trí của ta và của giặc, hầu giúp đơn vị trưởng dưới đất điều quân. Để địch kiểm thính mà không hiểu được nội dung cuộc điện đàm khẩn cấp, ông xử dụng cả ba ngôn ngữ: Việt – Pháp – Anh. Trên đây là mẫu đối thoại bình thường của Tướng Đảo với các đơn vị trưởng ngoài mặt trận. Lệnh của ông truyền ra rất thân tình, rất “Huynh đệ chi binh”, chứ không thô lỗ, cộc cằn và hách dịch như cấp chỉ huy của CS.

b/- Góc chiến trường hướng Tây – Bắc:

1.      Sư đoàn 341/CSBV: 

·         Mũi tấn công của Trung đoàn 266:

Sư đoàn 341 để Trung đoàn 273 làm lực lượng trừ bị, đồng thời cầm chân Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng. Tên Sư trưởng Đại tá Trần Văn Trấn theo sát Trung đoàn 266, xuất phát từ những cánh rừng cao su thuộc đồn điền Bình Lộc, vượt qua ngã ba Cua Heo, qua làng Phế Binh, tiến vào khu vực bến xe, và khu chợ. Ba Tiểu đoàn của Trung đoàn 266 xâm nhập được vào vùng ven thị xã, nhưng bị pháo binh Sư đoàn và đại liên 20ly từ chiếc C.119 của Sư đoàn 3/KQ bắn hạ. Một toán bộ đội đặc công đột nhập Tư dinh Tỉnh trưởng treo cờ. Vài toán bộ đội khác đi lạc vào khu phố, khu trường học và nhà thờ thì gặp Đại đội Trinh sát 18 của Đại úy Phạm Hữu Đa chận lại. Một số bị tiêu diệt. Những tên sống sót tìm cách ẩn núp trong các cống rãnh, để rồi sau đó lần lượt 20 tên bị bắt làm tù binh. Chúng đều ở trong độ tuổi 17, chưa được huấn luyện đã bị đưa vào Nam. Đám này như Mán về thành. Thật sự thì chúng là đám khỉ trên rừng Trường Sơn mới xuống. Sợ chết, sợ tiếng súng, không quen trận mạc, chúng trốn chui trốn nhủi, hoặc tìm cách “chém vè”. Lúc bị bắt, cấp số đạn ít ỏi 70 viên mang theo, nhưng chưa bắn một viên nào!

Đợt đầu tấn công thất bại. Sư trưởng Trần Văn Trấn cho tổ chức lại đội hình, mở đợt tấn công lần thứ hai. Hắn điều quân chuyển hướng về hướng Đông, nhưng quân giặc lại gặp các chiến sĩ ĐPQ/LK chận lại. Ta với giặc đánh nhau ác liệt.

Lúc 11 giờ sáng, Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu tá Trần Cẩm Tường và Chi đoàn 3/5 Thiết kỵ của Đại úy Lê Sơn được lệnh phản công tái chiếm làng Thương Phế Binh ở gần Cua Heo. Dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đại úy An, Tiểu đoàn Phó, Đại đội 2/1 của Trung úy Dự, và Đại đội 3/1 của Trung úy Kiệt, cùng với hỏa lực hùng hậu của Chi đoàn 3/TK của Đại úy Lê Sơn, CĐT, quân bạn đã tiến công như vũ bão, quyết tái chiếm mục tiêu. Chúng cố thủ trong những căn nhà, cố gắng ngăn chận cuộc phản công của ta. Trận chiến diễn ra thật gay go. Nhưng do đơn vị địch quá bất ngờ trước một đối thủ thiện chiến với tinh thần quyết chiến quyết thắng, chúng đã bị đè bẹp. Đại úy Lê Văn Dự (cùng với Kiệt, được thăng cấp Đại úy sau chiến thắng này) cho biết: “Đây là một chiến thắng lớn, ta tịch thu rất nhiều vũ khí. VC chết vô số kể, không tản thương được, do ta với địch sát gần nhau. Tiếng la khóc của thương binh VC dậy trời. Số lượng vũ khí địch bị quân ta tịch thu quá nhiều, tôi đã cho bó lại từng 5 cây AK làm một, xin Lao công Đào binh vận chuyển. Điều đáng nói là quân ta hoàn toàn vô sự!”

Theo hồ sơ trận liệt, đám giặc cỏ này là Trung đoàn 266, do đích thân tên Sư trưởng Trần Văn Trấn chỉ huy. Theo báo cáo của Hạ sĩ Nhất Kim Mỹ (ĐĐ3/1, hiện định cư tại Úc): “Ta bắt sống 3 tù binh, hàng trăm tên giặc bị hạ sát, trong đó có tên Chính ủy Trung đoàn, nhiều vũ khí bị tịch thu.”

Ngày 11 tháng Tư, lúc 11 giờ 30, giặc tấn công trại Huỳnh Văn Điền (hậu cứ Trung đoàn 52), nằm trên đường Hoàng Diệu. Đây là căn cứ cũ của Trung đoàn Kỵ binh Mỹ do Đại tá Patton, con trai của cố Danh tướng Thiết giáp Mỹ Patton, chỉ huy. Lực lượng phòng thủ chỉ là quân nhân hậu cứ, những quân nhân loại 2 chờ giải ngũ, những bệnh binh đang nghỉ dưỡng sức, và một vài gia đình binh sĩ không chịu xa chồng. Nhưng Sư trưởng Sư 7 Lê Nam Phong tung Trung đoàn 141 có chiến xa yểm trợ, từ hướng ấp Bảo Vinh A tấn công. Quân nhân hậu cứ 52 đã chống trả quyết liệt. Tất cả bọn họ đã trở thành những chiến sĩ dũng cảm. Cổ nhân từng nói: “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”. Huống hồ họ là lính, là vợ, là con của lính. Đây là trận chiến có tính cách quyết định. Họ phải chứng tỏ cho CSBV thấy rằng quân dân Miền Nam yêu chuộng Tự Do, dù phải chết, cũng chiến đấu đến cùng. Họ không bao giờ chấp nhận chế độ độc tài Cộng sản. Kết quả phe ta đã hạ sát hơn 50 tên giặc xâm lược, tịch thu 32 vũ khí đủ loại, bắn cháy 2 xe tăng T-54. Thật là một kỳ công!

Đêm 11.4.75, từ ấp Nguyễn Thái Học, tuyến phòng ngự của CĐ52 tại ngã ba Dầu Giây, Tiểu đoàn 2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út được lệnh khẩn cấp hành quân tăng viện cho Xuân Lộc. Buổi sáng ngày 12, sau khi vượt qua tuyến giặc tại đèo Mẹ Bồng Con do Trung đoàn 274 của Sư 6 đóng chốt, đơn vị của Út đã tao ngộ chiến với quân CSBV tại ấp Suối Tre, tiêu diệt một đoàn xe chở quân và đồ tiếp tế, hạ sát hơn 100 tên bộ đội “cụ Hồ”, tịch thu nhiều vũ khí, trong đó có 1 thượng liên phòng không 37ly gắn trên xe. Đơn vị của Đại úy Út tiếp tục tiến vào Xuân Lộc để bắt tay CĐ43. Lại một cuộc tao ngộ chiến nữa, khi gặp địch đang đưa lưng ra, đang chăm chăm hướng về thị xã. Đám giặc bất ngờ bị đánh tập hậu. TĐ2/52 đã tiêu diệt gọn trên 60 tên và tịch thu toàn bộ vũ khí của giặc.

·         Mũi tấn công của Trung đoàn 270:

Quyển lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” (mà khẩu hiệu của quân đội này lại là chỉ trung với Đảng!), viết rằng trong đợt pháo đầu tiên bắn vào Xuân Lộc, đã làm tê liệt hệ thống truyền tin của Sư đoàn 18BB, và đánh sập cây anten 292 tại Núi Thị. Nhưng chỉ là tưởng tượng! Hệ thống truyền tin của Sư đoàn vẫn hoạt động tốt, cây anten 292 tại Núi Thị không hề bị đánh sập.

Có một điều quân CSBV không biết. Buổi trưa ngày 13 tháng Tư, sau khi phái đoàn báo chí Tây phương vừa rời Xuân Lộc, pháo CS đánh hơi được, đã pháo kích tàn bạo vào vị trí mà Tướng Đảo vừa gặp gỡ báo chí. Trận mưa pháo của giặc đã đánh sập cây cây antenna 292 của TTHQ/SĐ. Hệ thống truyền tin bị gián đoạn một lúc. Đại úy Truyền tin Sư đoàn Đặng Trần Hoa cùng các nhân viên thuộc cấp đã “đội pháo” giặc, lập tức dựng lại cây antenna. Một Thượng sĩ già, thấy pháo giặc bắn rát quá, sợ pháo giặc làm hư hỏng mấy khẩu pháo 105ly, liền cùng một vài pháo thủ, tìm cách kéo pháo ra khỏi trận địa pháo. Từ hầm chỉ huy, Tướng Đảo say sưa quan sát những hành động dũng cảm của quân nhân thuộc quyền, một mảnh đạn pháo giặc ghim vào cánh tay của ông. Rất may mắn, mảnh đạn chỉ gây thương tích nhẹ cho Tướng Đảo.


     Khu vực Núi Thị, nơi trấn giữ của Tiểu đoàn 2/43, là vị trí quan trọng trong trận chiến Xuân Lộc. Nếu là một cấp chỉ huy giỏi, có học trường lớp đàng hoàng, Tướng Trà và Tướng Cầm phải ưu tiên tiêu diệt vị trí này. Núi Thị không cao lắm, diện tích lối ½ cây số vuông, nằm cách xa thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây. Tại đỉnh cao nhất, một cây thị lớn còn sót lại, nay trở thành cây cổ thụ, thân cây lớn hơn hai vòng tay ôm, nên ngọn núi được người dân địa phương gọi là Núi Thị. Về phương diện chiến thuật, cao điểm Núi Thị có thể khống chế Xuân Lộc về hướng Đông, và Dầu Giây về hướng Tây. Trước khi trở thành điểm cao quân sự, Núi Thị là sở hữu của viên chủ đồn điền cao su người Pháp. Núi có hình thế yên ngựa. Một tòa lâu đài cỗ, với những bức tường dày bằng bê tông cốt sắt, sừng sững chiếm hết đỉnh cao của ngọn núi. Không khí trong các phòng ốc mát lạnh như khí hậu ở Đàlạt, hàn thử biểu thường chỉ trên dưới 22 độ C. Được biết hàng năm Bộ Quốc Phòng VNCH phải trả tiền trưng dụng tòa lâu đài đó với số tiền 3 triệu đồng. Từ lâu, Núi thị là Hậu cứ của Tiểu đoàn 2/43, từng bị VC đánh đặc công một lần, khi đơn vị này đang hành quân vượt biên sang Kampuchia năm 1970. Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, Tướng Đảo cho thiết lập tại đây một Trung tâm Hành quân dự phòng cho Sư đoàn với đầy đủ thiết bị, có đài siêu tầng số. Hệ thống truyền tin tại Núi Thị hoạt động rất tốt. Suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến, truyền tin tại Núi Thị không hề bị gián đoạn. Hai pháo đội 105ly, một pháo đội 155ly được kéo lên đây để có thể bắn yểm trợ cho Xuân Lộc và Dầu Giây. Trung đội pháo 105ly diện địa vốn được bố trí tại đây, được kéo trả về cho Tiểu khu Long Khánh. Những người lính Tiểu đoàn 2/43 rất sung sướng khi được chỉ định trấn giữ đất nhà. Nhưng việc bảo vệ điểm cao chiến thuật, và giữ gìn an ninh cho giàn pháo hùng hậu của Sư đoàn không phải là dễ. Tuyến phòng thủ của đơn vị phải mở rộng, phải có những toán tiền đồn, phục kích từ xa, hầu ngăn chận không cho cộng quân mon men đến gần dùng đạn bắn thẳng hay súng cối, bắn vào uy hiếp các pháo thủ. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn (BK/TĐ), một tổ chức ngoài bảng cấp số, được thành lập từ khi Tướng Đảo về giữ chức Tư lệnh, với quân số đầy đủ trên 42 chiến sĩ, đặt dưới quyền chỉ huy của một Thiếu úy tốt nghiệp Võ bị Đàlạt, phụ tá là một Trung sĩ Nhất từng phục vụ trong Binh chủng Lực lượng Đặc biệt, nằm tiền đồn xa, hoạt động rất hữu hiệu. Các chiến binh của Trung đội này đều được gửi đi học các khóa Viễn Thám và Rừng Núi Sình Lầy tại Trung tâm Huấn luyện BĐQ/Dục Mỹ. Họ là những chiến binh đa năng đa dụng, rất dũng cảm. Họ từng nhảy vào Tánh Linh cắm cờ và rút lui an toàn, khi quận này bị quân CSBV đánh chiếm hồi mùa Thu năm 1974. Trước khi trận chiến mở màn, các toán trinh sát và cấp chỉ huy của Sư đoàn 341/CSBV tìm cách mon men đến gần Núi Thị điều nghiên, đã bị các toán phục kích và tiền đồn của TĐ2/43 tiêu diệt. Đêm 8.4.75, tại sườn đông Núi Ma, cách căn cứ hoả lực Núi Thị lối 2 cây số về hướng Tây-Bắc, một toán trinh sát địch trên 10 tên, gồm có tên tiền sát viên pháo và các tên chỉ huy cao cấp lọt vào tuyến phục kích của Trung đội BK/TĐ. Chúng đã bị diệt gọn do các trái mìn clamore được kích nổ kịp thời, và những tràng tiểu liên M.16 bắn chính xác. Từ đó, các toán trinh sát của địch không còn dám mạo hiểm đến gần. Suốt trong trận chiến, căn cứ hỏa lực Núi Thị không hề bị đạn bắn thẳng hay súng sối địch quấy phá. Mặc dù Tiểu đoàn Đặc công thường xuyên bám sát.

Sáng sớm ngày 9 tháng Tư, sau trận mưa pháo kéo dài lối một tiếng đồng hồ, Sư 341 tung Trung đoàn 270 có đơn vị đặc công dẫn đường, mở cuộc tấn công biển người, quyết san bằng căn cứ hỏa lực Núi Thị.

Dưới cặp mắt của một nhà quân sự, hai việc cần phải ưu tiên làm truớc nhất để đánh chiếm Xuân Lộc là:

-          Thứ nhất, phải triệt hạ Núi Thị, vì đó là một cao điểm quân sự quan trọng, có thể khống chế Xuân Lộc và ngã ba Dầu Giây.

-          Thứ hai, tiêu diệt Chiến đoàn 52 ở ngã ba Dầu Giây, vì từ đây, quân bạn có thể tiếp cứu Xuân Lộc, cũng là vị trí nối liền Biên Hòa và Xuân Lộc.

Tướng Trà đã thấy được điểm này, nên ngay sau khi từ sào huyệt Lộc Ninh xuống đến chỉ huy sở Quân đoàn 4 của Cầm đóng trên bờ sông La Ngà, sau khi nghe báo cáo tình hình thực tế, Trà đã đồng ý với ý kiến của Hoàng Cầm là phải “Tiêu diệt Trung đoàn 52 ngụy ở ngả ba Dầu Giây và Núi Thị. Sau đó đánh chiếm Xuân Lộc…”

Thật ra Cầm chậm hiểu, hay nói một cách khác là Cầm đã không tiên liệu được hoạt động hữu hiệu của căn cứ hỏa lực Núi Thị. Với suy nghĩ đơn giản, nếu không chiếm đuợc Núi Thị, thì chỉ cần khống chế bằng các loại pháo là được. Nhưng Cầm đã lầm. Các pháo thủ Sư đoàn 18 tại Núi Thị đã “đội pháo” giặc để bắn yểm trợ đơn vị bạn khi cần thiết. Quân đoàn 4 đã không chỉ thị rõ ràng và quyết liệt cho Đại tá Trần Văn Trấn, Chỉ huy Sư 341 phải ưu tiên triệt hạ Núi Thị, trước khi tiến đánh khu vực cổng số 1 của thị xã. Với trình độ chỉ huy tác chiến kém cỏi của Trấn, sau khi tung Trung đoàn 270 tiến đánh Núi Thị thất bại, đã cho lệnh rút ra, để tăng cường cho mũi tấn công của Trung đoàn 266 đang bị cầm chân ở làng Thương Phế Binh và đầu thị xã. Trấn đã không có “tư duy” của một nhà chỉ huy quân sự cấp Sư đoàn.

 Mũi tiến công của Trung đoàn 270 đã bị chận đứng ngay tại tuyến phòng ngự bên ngoài. Bộ đội CSBV từ ấp Suối Tre, từ hướng giữa đèo Mẹ Bồng Con và Núi Ma, với chiến thuật biển người cố hữu, sau khi dứt loạt đạn pháo cuối cùng, và khi nhìn thấy hai trái hỏa châu lóe sáng trên bầu trời, như dấu hiệu tấn công, đã ồ ạt vượt qua sân bay đồn điền cao su, vượt qua đường QL1, tiến vào phòng tuyến Đại đội 1 của Trung úy Chánh  và Đại đội 2 của Trung úy Mười. Đám bộ đội vượt qua khu đất trống trải là miếng mồi ngon cho những trái mìn claymore được kích nổ kịp thời, những tràng đạn tiểu liên M.16, đại liên M.60 nổ dòn, những trái lựu đạn M-26 được ném ra, đã đốn ngã tất cả bọn chúng. Một số nát thây khi lọt vào bãi mìn. Lớp trước ngã, lớp sau tiến lên, chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn, với những tiếng la xung phong đặc sệt giọng Nghệ - Tỉnh rất man rợ. Dù liều chết, dù quyết tâm, chúng đành phải “sinh Bắc-tử Nam”, vẫn không chọc thủng được phòng tuyến quân bạn. Xác địch nằm la liệt trước phòng tuyến. Trời sáng dần. Chúng cố gắng mang theo đồng đội bị thương vong, nhưng vất lại vũ khí, lủi sâu vào ấp Suối Tre và Núi Ma.

Tấn công Núi Thị thất bại, tên Thủ trưởng được lệnh cho rút bớt 1 Tiểu đoàn, di chuyển về thị xã, hợp lực cùng Trung đoàn 266, tấn công  cạnh sườn Tiểu đoàn 1/48 và Chi đoàn 3/5 Thiết kỵ đang phản công chiếm lại làng TPB và Cua Heo.

Khi màn đêm xuống, toàn bộ Trung đoàn 270 được lệnh bỏ mục tiêu Núi Thị (đây là cái ngu của tên Sư trưởng Trần Văn Trấn) chi viện Trung đoàn 266 đang bị cầm chân ở thị xã, chỉ để lại Tiểu đoàn đặc công. Tấn công bằng quân bộ chiến thất bại, chúng chuyển qua tấn công bằng pháo. Những trận mưa pháo tàn bạo, có tính cách hủy diệt, liên tục trút lên Núi Thị. Nhưng những pháo thủ vẫn can trường vẫn “đội pháo” bắn yểm trợ quân bạn. Dù sao, những trận mưa pháo của giặc cũng gây tổn thất đáng kể cho Tiểu đoàn. Một Đại úy Đại đội trưởng, một Thiếu úy Đại đội phó, một Sĩ quan Tham mưu và nhiều binh sĩ bị thương vong. Trực thăng tản thương phải liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn phòng không dày đặc, để kịp đưa các chiến sĩ bị thương nặng về Long Bình cứu chữa. Những chiến binh bị thương nhẹ vẫn ở lại tiếp tục chiến đấu. Những ai chẳng may qua đời, đơn vị đành phải an táng tại chỗ. “Vùi nông một nấm”, và sau ngày 21.4.75, đành phải “mặc tình cỏ hoang”.

Tiểu đoàn được tăng phái một Toán Kỹ thuật thuộc Biệt đội Kỹ thuật của Đại úy Phát, Phòng 7/BTTM. Trưởng toán là một Trung sĩ trẻ, anh Út, hiện định cư ở San Diego,  California, rất thành công. Út thông minh và nhanh nhẹn. Nhờ giải mã mau lẹ các cuộc điện đàm của địch, đơn vị đã giảm thiểu được tối đa sự tổn thất. Rất nhiều lần, Út báo cho TĐT những đợt tấn công pháo của Bắc quân. Có lúc lệnh cho quân sĩ xuống hầm, chờ mãi một hai phút sau đạn pháo địch mới đến. Toán Kỹ thuật cũng đưa cho xem những bản mật điện trao đổi giữa cấp chỉ huy của  quân CSBV có nội dung rất bi đát, nhưng cũng khá là khôi hài. Có một bản văn do một Thủ trưởng D, tức TĐT, gửi cho Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 266 với nội dung:

“Báo cáo đồng chí Thủ trưởng, đơn vị chỉ còn 25 chiến sĩ, lương thực hết, đạn dược hết, nước uống không có, xin được rút ra”.

Bản văn trả lời của tên Thủ trưởng:

“Phải bám sát trận địa, sẽ có quân chi viện. Các đồng chí phải khắc phục!”

Đại loại nội dung các bản văn đều gần giống nhau. Cấp dưới thì tuyệt vọng, tinh thần xuống thấp. Cấp trên thì cứ hứa hẹn suôn, và giải quyết vấn đề là hai chữ “Khắc phục”, như một liều thuốc tiên!

Các Toán Kỹ Thuật là những quân nhân làm việc âm thầm trong một căn phòng nhỏ, với nhiều máy móc truyền tin. Họ là những chiến sĩ vô danh, nhưng đã gián tiếp góp công lớn trong chiến thắng Xuân Lộc. Khi bắt được những bức điện mật của quân CSBV, họ giải mã mau lẹ, và gửi ngay về Sư đoàn. Tại đây, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng 2/SĐ và bộ tham mưu của ông phân tích, đánh giá, phân loại, rồi trình lên tướng Tư lệnh. Nhờ những tin tức tương đối chính xác đó, đối chiếu với nhiều nguồn tin khác, Tướng Tư lệnh cho bắn pháo và xin đánh bom. Mỗi ngày Sư đoàn 3/KQ đã cung cấp đến 50 phi xuất, với những loại bom 250, 500, và 750 cân Anh đánh lên đầu giặc. Pháo binh Sư đoàn thì rất dồi dào trong những ngày đầu của trận chiến. Đây cũng là điểm son của ông Tư lệnh. Như ta đã biết, đạn dược và quân dụng của QLVNCH bị giới hạn bởi điều khoản “một đổi một” của Hiệp định Paris, nên ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, Tướng Đảo đã chỉ thị các đơn vị trưởng báo cáo con số tiêu thụ đạn dược gấp hai hay ba lần con số thực. Số sai biệt đó, các đơn vị chôn dấu để qua mắt Phái đoàn Thanh tra của BTTM/QLVNCH. Chính nhờ số đạn dự trử được chôn dấu đó, được các chiến binh Sư đoàn 18BB đem ra xử dụng tối đa trong những ngày đầu của trận chiến, đã ngăn chận được những đợt tấn công biển người của quân giặc.

Suốt 12 ngày đêm của trận chiến Xuân Lộc, căn cứ Núi Thị vẫn đứng vững. Trung đoàn 270 thuộc Sư 341/CSBV do tên Đại tá Trần Văn Trấn chỉ huy, phối hợp cùng 1 Tiểu đoàn Đặc công, đã hai lần mở cuộc tấn công qui mô, nhưng đều thảm bại. Bộ đội địch đã không thể nào vượt qua khỏi tuyến chiến đấu ngoài cùng của đơn vị phòng thủ. Vô số bọn cán binh CSBV bị thương vong, vẫn không chọc thủng được phòng tuyến. Tên Sư trưởng Trấn đành phải bỏ cuộc, lệnh cho đơn vị này nằm tại chỗ bao vây, và đơn vị đặc công tìm cách đột nhập quấy phá. Mười hai khâu pháo tại căn cứ là miếng mồi ngon cho những tên “sinh Bắc tử Nam” này. Nhưng dù có liều lĩnh, dù “cố đấm ăn xôi”, trước sau đều thất bại. Trong số xác cộng quân để lại tại trận địa, ta phát hiện một tên cấp Thiếu úy, chức vụ C trưởng (đại đội trưởng). Thế nhưng CSBV vẫn lếu láo. Và Tướng Trà trong quyển “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, trang 262, đã viết: “Đêm 13 rạng ngày 14.4, theo quyết tâm mới của quân đoàn 4, sư đoàn 6 đã tiêu diệt gọn một tiểu đàn của trung đoàn 52 thuộc sư đoàn 18 và mộ chi đoàn thiết giáp, giải phóng ngã ba Dầu Giây. Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”

Vào một ngày sau khi trận chiến Xuân lộc mở màng, có hai Pháp kiều được dẫn đến gặp Tiểu đoàn trưởng 2/43. Họ là các chủ đồn điền cao su, một là đồn điền An lộc, và một là đồn điền Túc Trưng. Viên chủ đồn điền An Lộc có vợ là người Việt, có một cậu con trai phục vụ trong lực lượng Nghĩa Quân, và viên chủ đồn điền Túc Trưng, tự giới thiệu là cựu Trung úy Nhảy dù, từng tham chiến tại trận Điện Biên Phủ. Khi Xuân Lộc bị tấn công, cộng quân lầm tưởng họ là những cố vấn Mỹ, nên đã bị bịt mắt bắt đi, bị đưa vào vùng đồn điền cao su Bình Lộc. Nhưng sau vài ngày, được xác minh là Pháp kiều, nên được thả. Họ đã cung cấp nhiều tin tức về địch tình rất chính xác. Loại tin tức được đánh giá loại A1 này được gửi ngay cho Phòng 2 Sư đoàn. Cũng nhờ những tin tức này với tọa độ chính xác, Tướng Tư lệnh đã cho đánh bom và bắn pháo binh tiêu diệt. Trong số những tin tức quan trọng, tôi để ý một tin là những đêm trong rừng, họ đã chứng kiến từng đoàn xe bò chất đầy xác và thương binh cộng quân, di chuyển suốt đêm về hướng Bắc. Đó là tổn thất của cộng quân trong vài ngày đầu tiến quân vào xuân Lộc.

Sau khi quân Dù vào, áp lực địch tại vùng trách nhiệm của TĐ2/43 giảm. vì cộng quân đang lo chống đở các mũi tấn công mà đơn vị tăng viện này liền triễn khai ngay khi vừa vào vùng. Suốt một giải đất từ Đèo Mẹ Bồng Con đến Cua Heo, từ xã An Lộc đế ấp Suối Tre tương đối yên tĩnh. Địch không còn mở những cuộc tấn công ban ngày. Chúng chỉ mở những cuộc tấn công nhỏ, có tính cách quấy rối vào lúc đêm tối. Nhưng pháo địch thì rất ác liệt, có tính cách hủy diệt. Chúng xử dụng đủ loại pháo: cối 82ly, 130 ly, hỏa tiễn 122ly,… Cứ cách 1 hay 2 tiếng là một trận pháo kích. Và mỗi trận pháo như vậy kéo dài lối nửa hay một tiếng. Nhưng đơn vị trú phòng đã kịp xuống hầm, thường là trước 5 hay 10 phút, do nhờ toán Kỹ thuật bắt được lệnh của chúng.

Mỗi ngày hai Pháp kiều đều đến gặp tôi vào buổi chiều, và đã cung cấp nhiều tin tức hữu ích. Viên chủ đồn điền An Lộc xin phép tôi cho máy bay đồn điền chở lương đến phát cho công nhân.

c/- Góc chiến trường hướng Tây:

·         Sư đoàn 6/CSBV:

-          Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị. Trung đoàn này thuộc Quân khu 6, còn có tên là Sư đoàn Sông Mao. Trong những ngày cuối tháng 3, tham gia chiến dịch đánh chiếm Võ Đắc và Võ Su của quận Hoài đức. Sau đó tiến về hướng Bắc, đánh chiếm Di Linh của tỉnh Lâm Đồng.

 

-          Trung đoàn 274 tiến chiếm Đèo Mẹ Bồng Con, cách Núi Thị lối 3 cây số về hướng Tây. Đơn vị này đã tổ chức hệ thống kiềng chốt khá kiên cố để có thể ngăn chận quân bạn cứu viện từ Dầu giây, từ Xuân Lộc hay ngược lại. Một con suối nhỏ chảy qua Đèo, nối liền Núi Ma đến cánh rừng phía Nam, đi ngang qua đồn điền cao su de Suzannah. Đó là con đường tiến sát rất an toàn, có rừng cây che mắt phi cơ quan sát. Một bộ phận tiến chiếm ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ giữ an ninh).

 

-          Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu (cách ngã ba Dầu Giây hơn 1 cây số về hướng Nam), và đánh xã Hưng Lộc – Hưng Nghĩa. Tại đây, lực lượng trú phòng chỉ là NQ và Nhân Dân Tự Vệ. Nhưng các chiến sĩ áo đen đã chống trả quyết liệt. Họ đã giữ được Hưng Nghĩa, nhưng Hưng Lộc lọt vào tay giặc. Ngã ba Dầu Giây được Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú trấn giữ, và chỉ mất vào tay giặc buổi tối ngày 13.4.75. Trung đoàn 33 còn có tên Trung đoàn Quyết Thắng Long Khánh. Đơn vị này dù mang danh là Quyết Thắng, nhưng đã hơn ba lần đại bại trước Tiểu đoàn 2/43 (Trận đánh Cẩm Mỹ, trận đánh tại ngã ba Dầu Giây ngày đình chiến tháng 1.73, và trận Võ Đắc – Võ Su tháng 12 năm 1974). Tên Thủ trưởng Trung đoàn 33 đã chỉ thị cho bộ đội của hắn tránh đụng độ TĐ2/43. Khi tao ngộ chiến, phải tìm cách chém vè, nếu không muốn bị tiêu diệt (Theo cung từ tên tù binh Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 33 bị bắt tại trận đánh ở ngã ba Dầu Giây, và một mảnh giấy viết vội để lại trên một đống vũ khí tại Võ Đắc ghi: “chúng tôi thua phen này, hẹn gặp lại”). 

 

Tình thế đã bất lợi về phía quân CSBV. Trần Văn Trà thú nhận trong tập hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm”: “… vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng. Địch phản kích điên cuồng tuy chúng bị thiệt hại nặng. Máy bay địch đánh phá ác liệt, có tính chất hủy diệt các mục tiêu chúng đã mất (sai, chỉ mất khu bến xe và khu chợ trong buổi sáng đầu tiên, nhưng chỉ tái chiếm bằng bộ binh, không hề đánh bom, vì nằm bên trong thị xã). Quân đoàn đã kêu thiếu đạn các loại nhất là sư đoàn 1 (tức 341) và sư đoàn 6. sư đoàn 7 thì thiếu quân số…Rồi báo báo cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần lượt. Có vị trí thay đổi chủ vài lần (khu bến xe và khu chợ). Số thương vong của sư đoàn 1 cao hơn các đơn vị khác vì kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều ở chiến trường ác liệt. Tình hình rất gay go.”

Lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân dân” viết: “Trong 3 ngày đầu tiên (9,10,11/4/75) Sư đoàn 7 thiệt hại 300 chiến sĩ, và Sư đoàn 341 tổn thất 1,200, hầu hết pháo 85ly và 57ly bị tiêu hủy”.

Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.

Ngày 11.4, sau 3 ngày tấn công vào Xuân Lộc thất bại, tên “Thái Thượng Hoàng” không ngai Lê Đức Thọ cùng  Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) và Trần Văn Trà họp khẩn cấp để tìm “phương án” mới.

Sau cuộc họp của các tên đầu sỏ, Trần Văn Trà được phái đến mặt trận Xuân Lộc tìm hiểu cụ thể để có thể đề ra “phương án” mới thực tế hơn, thích hợp hơn với tình hình đang biến chuyển mau lẹ, nếu cần, Trà sẽ trực tiếp nắm quyền chỉ huy mặt trận Xuân Lộc.

Chiều ngày 11 tháng Tư, Trà lên đường đến thẳng chỉ huy sở của Quân đoàn 4 đóng trên bờ sông La Ngà. Trà vượt sông Đồng Nai bằng phà tại bến Tà Lài, ra gặp QL20 ở Phương Lâm. Sau khi quan sát thế trận tại chỗ, theo dõi hoạt động không quân và pháo binh của ta, được báo cáo kỹ tình hình diễn biến trận đánh, tình hình quân ta và thực lực của chúng, Trà quyết định chọn một giải pháp mới.

Quân đoàn 4 được tăng cường thêm Trung đoàn 95B vừa từ ngoài Trung vào. Đó là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của quân CSBV. Đơn vị này đã tham gia chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột, rồi được tăng cường cho Sư đoàn 320 ngăn chận đoàn quân di tản của Quân đoàn II từ Cao Nguyên, trên con đường 7B. Các đơn vị của Cầm gấp rút được bổ sung quân số và đạn dược, chúng lại được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo tầm xa và cao xạ phòng không.

Trận chiến đã bước sang ngày thứ ba, bộ đội của Cầm vẫn dậm chân tại chỗ. Sau khi quan sát tình hình thực tế, nhất là khi thấy Xuân Lộc được quân Dù tăng viện, Trần Văn Trà quyết định triễn khai kế hoạch mới. Với kế hoạch này, giặc không đánh trực diện, mà tìm cách đánh vào những vị trí ngoại vi của Xuân Lộc:

1/- Ngã ba Dầu Giây: Tuyến phòng thủ chỉ là CĐ52 (-) của Đại tá Ngô Kỳ Dũng (TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đã được lệnh xuất phái cho Xuân Lộc từ chiều ngày 11.4). Tuyến bố phòng chưa được vững chắc vì mới di chuyển về đây chiều ngày 8.4 thì rạng sáng ngày 9.4 trận chiến đã mở màn. Quân số không nhiều.

2/- Núi Thị: Tuyến phòng thủ chỉ có một Tiểu đoàn. Dù hệ thống bố phòng vững chắc, nhưng nếu lực lượng tấn công là cấp Trung đoàn, được tăng cường thêm đơn vị đặc công, lấy nhiều đánh ít, thì lực lượng trú phòng khó chống đở. Nếu là một cấp chỉ huy quân sự giỏi, Tướng Trà và Tướng Cầm phải có kế hoạch bằng mọi cách triệt hạ Núi Thị trước khi tiến đánh Xuân Lộc. Hay là cùng tiến đánh, nhưng mục tiêu Núi Thị phải ưu tiên hàng đầu. Trà và Cầm đã bỏ lỡ cơ hội “ngàn vàng”.   

Lúc này lực lượng trấn thủ Xuân Lộc đã có thêm TĐ2/48 của Thiếu tá Đổ Duy Luật đang bảo vệ thị xã Hàm Tân (Bình Tuy) được trực thăng vận về; TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đang trấn đóng vùng ngã ba Dầu Giây được lệnh tăng cường Xuân Lộc. Như vậy đến cuối ngày 11.4.75, lực lượng trú phòng tại Xuân Lộc đã có 2 Trung đoàn Bộ binh, 1 Tiểu đoàn BĐQ, 1 Thiết đoàn (-), và ĐĐ18TS.

Tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân “Giải Phóng” và Tướng Hoàng Cầm, TL/QĐ4 đều nhận định không thể tiếp tục đánh Xuân Lộc. Vì đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ, càng đánh càng thua. Trà chỉ thị Hoàng Cầm:

-          Xử dụng 1 Sư đoàn tiêu diệt CĐ 52 ở Dầu Giây và TĐ 2/43 ở Núi Thị.

-          Lực lượng mạnh của QĐ4 (Sư 7) kèm chặt Xuân Lộc. 

Ngày 12 tháng Tư, Quân đoàn III xử dụng một trong hai lực lượng trừ bị cuối cùng (lực lượng kia là Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi), là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, cho trực thăng vận vào Xuân Lộc. Đơn vị này vừa từ ngoài Trung vào, chưa kịp nghỉ ngơi, nhưng với quyết tâm “Nhảy Dù! Cố gắng!”, những thiên thần mũ đỏ gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, ĐĐ1/TS, ĐĐ3/CB, ĐĐ1/QYDù và TĐ3/PBDù, đã làm cho Sư 7 của Lê Nam Phong thất điên bát đảo!

Khi Lữ đoàn 1 Dù vào, Chiến đoàn 48 bàn giao trách nhiệm, di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong (Chi khu Xuân Lộc), phía Nam thị xã, đến căn cứ Long Giao (Hậu cứ Trung đoàn 48); trở thành lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.

Theo Hồi ký Chiến trường của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ đoàn trưởng LĐ1Dù, vừa nhảy vào trận địa, các đơn vị Dù liền mở cuộc hành quân phản công địch. TĐ9Dù tiến quân về hướng Đông, tìm cách bắt tay với lực lượng Nghĩa Quân tại hai ấp Bảo Định và Bảo Bình. Mặc dù là lực lượng bán quân sự với quân số rất khiêm nhường, nhưng các chiến sĩ Nghĩa Quân đã chiến đấu kiên cường, giữ được xã ấp cho đến khi quân Dù đến. Nhưng một tin xấu đã đến với quân Dù, do không liên lạc được với nhau, những trái đạn súng cối từ trong ấp bắn ra đã gây thương tích trầm trọng cho vị TĐT, Trung tá Nho và hai binh sĩ. Sau khi bắt tay được với lực lượng trú phòng, TĐ9 và TĐ1 hoán đổi nhiệm vụ.

TĐ8Dù tiến quân tảo thanh hướng Bắc QL1, đã chạm súng mạnh với TĐ1/141/CSBV, hạ sát nhiều quân giặc. Với lối đánh thần tốc và táo bạo của các thiên thần mũ đỏ, vòng vây quân CSBV bị tan rã dần.

Tại trận chiến Xuân Lộc, Biệt Đội Kỹ Thuật thuộc Phòng 7/BTTM, với những chuyên viên giải mã giỏi, đã góp công lớn tạo nên chiến thắng mà bớt đổ máu. BĐKT bắt được những mật điện của chúng với nội dung hoàn toàn tuyệt vọng:

“Tình hình thật khẩn trương. Đồng chí N. (TĐT/TĐ1) và nhiều đồng chí khác hy sinh, phải chôn tại chỗ. Chúng tôi đang tìm đường rút, nhưng bị quân Dù ngụy bao vây mọi hướng.”

Nhưng sau 35 năm trận chiến, Lê Nam Phong đã là Trung tướng, được đề bạt chỉ huy Quân đoàn 1, trong một bài phỏng vấn, đã nói khoác: “Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công thị xã, chuyển ra tấn công trên QL1 để bao vây Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn vị nhỏ bám sát trận địa. Nhưng địch lầm tưởng chúng đã đẩy chúng tôi ra…” Thật ra chúng không bị đẩy ra, mà bị bao vây chia cắt, bị tấn công tiêu diệt, không rút ra được. “Đơn vị nhỏ” mà Tướng Lê Nam Phong nói là Sư đoàn 7 do hắn chỉ huy.

Một bức điện mật khác:

“Lương thực hết. Hơn 100 chiến sĩ hy sinh, phải vùi họ ngay tại chỗ. Nhiều đồng chí bị thương. Chúng tôi không thể mang theo số vũ khí và máy truyền tin. Xin đồng chí Thủ trưởng cho chỉ thị…”

Mật điện trả lời của tên Thủ trưởng:

“Nếu không mang theo được thì hãy chôn và đánh dấu…Tôi muốn nhắc nhở các đồng chí…hãy nhớ đến chiến thắng Điện Biên Phủ và Tàu Ô. Đêm nay tôi sẽ cho Đại đội Trinh sát vào mang các đồng chí ra”.

Nhờ BĐKT giải mã kịp thời, quân bạn biết được ý định của quân CSBV, cho dàn trận phục kích. Đêm đó, khi đơn vị trinh sát địch xuất hiện, chúng đã lọt vào bẫy sập của TĐ1Dù, tất cả bị diệt gọn.

Một vài bức điện mật khác của quân CSBV:

“Hiện tại chúng tôi chỉ còn 39 chiến sĩ, nhưng đã có gần 200 đồng chí bị thương. Việc di chuyển rất khó khăn. Chúng tôi không thể bắt tay được với đơn vị trinh sát”.

“Đêm nay TĐ2 sẽ chi viện các đồng chí. Các đồng chí phải giữ vững tinh thần.”

TĐ1Dù lại áp dụng chiến thuật cũ, nhưng lần này, TĐ3/PBDù đã góp công lớn. Những loạt đạn với đầu nổ cao, đầu chạm nổ, đã tiêu diệt hoàn toàn những tên sống sót của đơn vị thuộc Trung đoàn 141, Sư đoàn 7/CSBV.

Chính nhờ hoạt động hữu hiệu của Toán BĐKT, quân bạn đã có hành động đúng lúc, đúng chỗ. Do đó sự thiệt hại của quân CSBV là không tránh khỏi.

Nhưng tên cựu Sư trưởng Sư 7 Lê Nam Phong đã nói dốc không biết ngượng miệng: “…Đối diện với hiểm nguy bị tiêu diệt, Tướng Đảo phải bỏ Xuân Lộc và đã chuồn đi trong đêm mưa. Ngày 21 tháng Tư, 1975, sau 13 ngày chiến đấu ác liệt, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh long Khánh hoàn toàn được giải phóng.

Tiêu diệt cánh cửa thép Xuân Lộc, Quân đoàn 4 đã mở con đường cho đại quân của ta tiến về Sàigòn, với tinh thần ‘một ngày bằng 20 năm’…”

Nếu không được lệnh bỏ ngõ Xuân Lộc, vẫn giữ trận địa, cứ để cho QĐ2 và các đơn vị QK5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh từ hướng QL15 đánh lên, QĐ3 từ hướng QL20 đánh xuống, ta xử dụng bom BLU-82 hay CBU-55 đánh hủy diệt các mũi tiến công của chúng, rồi lực lượng ta từ Xuân Lộc đánh tập hậu, thì liệu quân CSBV có vượt qua được sông Đồng Nai để tiến về Sàigòn ngày 30.4.75 (?), hay đã bị tan tác.

Qua các bức điện mật, và những cuộc điện đàm được giải mã, ta thấy rõ TĐ1 Trung đoàn 141 thuộc Sư đoàn của hắn đã bị quân Dù xóa sổ, các đơn vị khác cũng kiệt quệ, có tiểu đoàn chỉ còn 39 tên. Nhưng cái bệnh ba hoa khoác loác, làm láo báo cáo hay của con người cộng sản thì đã thành cố tật, không thể sửa chữa được. Cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã để lại một câu nói để đời:

“Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”.

Từ chủ động tấn công, chọn thời gian, chọn địa điểm, bây giờ quân xâm lăng CSBV đã rơi vào thế bị động. Chúng chỉ lo co cụm và chống đở, hoặc tìm cách “chém vè” để sống sót. Các đơn vị tham chiến của Hoàng Cầm hầu như hoàn toàn tan rã và mất tinh thần. Cái hào quang Điện Biên Phủ năm nào, khi Cầm là Trung đoàn trưởng cùng bộ đội Việt Minh cắm lá cờ chiến thắng lên nóc hầm của Tướng bại trận de Castries, đã tiêu tan. Bây giờ Cầm chỉ là tên bại Tướng! Tên Hoàng Nghĩa Khánh, Tham mưu trưởng Quân đoàn làm một bản phân tích tình hình, rồi đề nghị:

“Bỏ Long Khánh, đi vòng diệt Trảng Bom rồi đánh Biên Hòa”. Hoàng Cầm thì đề nghị: “…diệt Trung đoàn 52 ở ngã ba Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị, rồi đánh chiếm Xuân Lộc.”

Sau khi tổng hợp các ý kiến, Trà kết luận:

“Xuân Lộc là điểm then chốt quan trọng, nên địch cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế. Ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi…Địch từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây không mạnh. Ta phải tận dụng lợi thế này của đường 20 và sơ hở này của địch …”

Căn cứ vào những phân tích ấy, Trà quyết định:

-          Xử dụng 1 sư đoàn tiêu diệt Trung đoàn 52 ở Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị. Chận và diệt quân tiếp viện từ Trảng Bom ra.

-          Lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc.

 

Chính Trà quyết định lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc, thế mà Tướng Lê Nam Phong nói: “chỉ để lại một đơn vị nhỏ…”. Thật là láo khoét. Lịch sử được viết lại theo quan điểm của kẻ thắng. Mặc dù Sư 7 của Lê Nam Phong, Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm bị đại bại, nhưng đứng trong phe chiến thắng, nên chúng tha hồ “vẽ rắn thêm chân”. Bảo Ninh, một tên văn nô Hànội, cũng với giọng điệu Lê Nam Phong, viết trong quyển “Nổi Buồn Chiến Tranh”, rằng “…Hồi bọn tớ tràn qua Xuân Lộc đuổi đánh bọn lính sư đoàn 18, ở những rãnh xích đầy những thịt với tóc. Giòi lúc nhúc. Thối khẳn. Xe chạy tới đâu ruồi bâu tới đấy…” Thật là dị hợm! Nói không biệt ngượng miệng. Nhưng thật đáng tiếc, sách của hắn đã được Hànội cho dịch ra rất nhiều thứ tiếng để tuyên truyền, và lừa bịp những ai cả tin. Người đọc mấy ai biết được sự thật. Trong suốt 12 ngày đêm chiến trận, không một chiếc xe tăng nào của Bắc quân vào được bên trong thị xã. Chỉ có vài chiếc chạy về hướng sân bay thì bị các chiến sĩ Mũ Nâu săn lùng và bắn hạ. Còn lại phần lớn bị thiêu hủy từ ngoài vòng rào kẽm gai. Một số mon men đến gần thì bị trúng mìn, bị M.72 hay súng nòng dài của chiến xa Thiết đoàn 5 Kỵ binh bắn hạ.

Quân CSBV đã thay đổi kế hoạch trước khi quân Dù đến. Thi hành chỉ thị của Trần Văn Trà,  Sư đoàn 341 được lệnh của Hoàng Cầm rút ra, lùi về phía sau để tránh bị tiêu diệt. Ngay trong đêm, Trung đoàn 266 đã hoàn tất việc rút quân, Trung đoàn 270 được lệnh trở lại Núi Thị, tăng cường Tiểu đoàn Đặc công, tiếp tục  mở những cuộc tấn công vào căn cứ hỏa lực đơn độc này. Sư đoàn 6 vẫn ở nguyên vị trí, phối hợp cùng Trung đoàn 95B, một đơn vị thiện chiến của CSBV, từ Cao Nguyên vừa được Tướng Văn Tiến Dũng điều động xuống tăng cường Quân đoàn 4.  Giặc đang triễn khai kế hoạch mới. Theo kế hoạch này, Sư đoàn 7 phải chận đứng các cuộc tiến công của quân Dù. Nhưng “lực bất tòng tâm”. Mặc dù cố gắng, mặc dù hạ quyết tâm, Sư 7 cũng đã bị đánh tan tác, bị đại bại. Tội nghiệp cho Lê Nam Phong phải chịu đựng những quả đấm mạnh của các Thiên thần Mũ đỏ.

Trong lúc đó lực lượng Quân đoàn 2 của Thiếu tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lãnh, từ ngoài Trung đang tiến vào theo đường duyên hải. Chúng được vận chuyển bằng xe molotova, chạy phon phon trên đường QL1. Giặc đã xuất hiện ở Rừng Lá. Rừng lá chỉ cách Xuân Lộc hơn 1 giờ xe hơi!

Ngày 13 tháng Tư, Trung đoàn 95B đã vào vùng. Ngoài ra Quân đoàn 4 cũng được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo và cao xạ, đồng thời gấp rút bổ sung quân số và đạn dược.

V- MẶT TRẬN PHÍA TÂY: NGÃ BA DẦU GIÂY       

1/- PHÒNG TUYẾN CHIẾN ĐOÀN 52:

Chiến đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, từ Kiệm Tân, di chuyển về lập tuyến phòng ngự tại khu vực ngã ba Dầu Giây từ tối ngày 8.4.1975.

Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ chỉ huy, cho Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ đồi Móng Ngựa. Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú bố trí quân khu vực ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy, phòng thủ chung với CĐ, gần ấp Nguyễn Thái Học (Đêm 11.4, đơn vị này được lệnh tăng cường cho Mặt trận Xuân Lộc).

Khi tấn công Xuân Lộc, quân CSBV chỉ bị bắn pháo và quấy rối tuyến phòng ngự  của CĐ52. Sau khi thất bại tại Xuân Lộc, quân CSBV thay đổi kế hoạch. Tuyến phòng ngự CĐ52 là ưu tiên 1 phải tiêu diệt, sau đó là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Là những cứ điểm hỗ trợ bên ngoài của Xuân Lộc. Kế hoạch mới này được chính Trần Văn Trà mang tay xuống từ sào huyệt Lộc Ninh. Theo dự tính của các tên đầu sỏ Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, và Phạm Hùng, Tướng Trần Văn Trà phải nhanh chóng đến BTL/QĐ4 của Tướng Hoàng Cầm tìm hiểu thực tế chiến trường. Nếu cần sẽ thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp  chỉ huy QĐ4. Do đó tình báo của phe ta đã nhầm lẫn khi cho rằng Hoàng Cầm bị Trần Văn Trà thay thế. 

Trưa ngày 13 tháng Tư, Sư đoàn 6 mở cuộc tấn công Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú. Thiếu úy Phạm Văn Trung (hiện định cư tại Cali.), Trung đội trưởng thuộc ĐĐ2/1 cho biết: “Trước khi tấn công, quân CSBV bắt loa kêu gọi đầu hàng. Chúng nói cho 15 phút suy nghĩ. Sau đó thì bắt đầu bắn pháo. Những loạt đạn đại pháo, súng cối đủ loại rót vào các vị trí đóng quân của đơn vị. Sau đợt “tiền pháo” là “hậu xung”. Giặc mở những đợt tấn công biển người, hết đợt này đến đợt khác. Lớp trước bị đốn ngả, lớp sau tiến lên. Hình như chúng bị say thuốc súng, hay đã được cho uống thuốc kích thích? Quân số Tiểu đoàn 1/52 bị hao hụt nhiều mà chưa kịp bổ sung. Đại đội 2/1 chỉ còn 50 tay súng! Một Chi đội M-113 đến tiếp ứng, nhưng bị bắn cháy 1 chiếc. Dù đã chống trả quyết liệt, nhưng bọn chúng quá đông, kiểu “lấy thịt đè người”, cuối cùng đơn vị bị tràn ngập. Số sống sót phải rút về BCH/CĐ tại ấp Nguyễn Thái Học”.

Tiêu diệt xong TĐ1/52, Trà cho lệnh Cầm điều quân đánh Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế tại Núi Thị. Vị trí bố phòng của TĐ1/52 và TĐ2/43 đều nằm ngoài tuyến bố phòng của Xuân Lộc. “Hồ hỡi” vì diệt được TĐ1/52, Cầm liền cho mở lại cuộc tấn công qui mô vào Núi Thị. Nhưng tuyến bố phòng của TĐ2/43 đã được các chiến binh can trường trấn giữ. Vả lại Núi Thị là hậu cứ của Tiểu đoàn, đã được bố phòng cẩn mật, rất vững chắc. Ngoài 600 tay súng dũng cảm, căn cứ còn có 12 khẩu đại pháo loại 105ly và 155ly, có thể hạ thấp nòng trực xạ vào đội hình tấn công của giặc với những trái đạn chống biển người. Quân xâm lăng CSBV đánh Núi Thị là đã đụng vào bức tường thép. “Bức Tường Thép” đúng nghĩa! Thật là dại dột khi không biết lượng sức. Suy nghĩ của Trung tướng Trần Văn Trà và Thiếu tướng Hoàng Cầm quá nông cạn, quá kém cỏi. Tư tưởng khinh địch lại về trong những bộ óc thiếu trình độ học vấn. Trần Văn Trà chỉ học xong 3 năm tại Trường Bá Công tức Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (trình độ cấp 2), còn Hoàng Cầm thì chỉ biết đọc và biết viết nhờ được theo học các lớp bình dân học vụ (chưa qua cấp 1) sau khi đã tham gia bộ đội Việt Minh. Khả năng phán đoán của hai tên tướng này lại quá kém, đã “Không biết mình, không biết người” như binh thư Tôn Tử viết. Bộ đội của Cầm bị thất bại là lẽ đương nhiên. Câu câm ngôn của CS là “Cứu cánh biện minh phương tiện”. Tên tướng bậc đàn anh là Võ Nguyên Giáp đã nướng hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn bộ đội để cố đạt cho được một chiến thắng. Bây giờ Cầm cũng thế. Nhưng hắn đã không làm được.

Lại một lần nữa, Trung đoàn 270 thuộc Sư đoàn 341/CSBV chuốc lấy thảm bại.   Trung đoàn 270 bỏ lại nhiều xác chết, phải rút ra. Tiểu đoàn đặc công vẫn bám sát, tiếp tục quấy phá. Nhưng các toán đặc công xâm nhập đều bị tiêu diệt ngay tại tuyến bố phòng ngoài cùng. Trong số đó có tên Thiếu úy cấp C trưởng, tức Đại đội trưởng. Tên này bị hạ sát ngay khi mới mon men đến vị trí cấp Trung đội, ĐĐ1/2 của Trung úy Chánh. Hai lần mở cuộc tấn công qui mô Núi Thị, hai lần đều thảm bại.  Nhưng thật là trơ trẽn khi Trà viết:

“Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”

“Núi Thị” mà Thượng tướng Trần Văn Trà viết trong Hồi ký KẾT THÚC CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM, chắc chắn không phải là Núi Thị do TĐ2/43 trấn giữ trong trận chiến Xuân Lộc. Núi Thị đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng trong tâm trí kém cỏi của Trà. Cũng như tên Sư trưởng Sư 341 Trần Văn Trấn tuyên bố đã đánh sập cây antenna 292 tại Núi Thị trong loạt đạn pháo đầu tiên, cũng chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng. Thật ra nếu pháo có đánh sập cây antenna thì chỉ là chuyện nhỏ, nó không gây ảnh hưởng gì đến hệ thống truyền tin của TĐ2/43, có thể sẽ bị gián đoạn trong chốc lác. Thế mà Trần Văn Trấn đã coi đó là một kỳ công! “Một điều bất tín, vạn sự bất tin”. Hồi ký của Trần Văn Trà, của Văn Tiến Dũng đều chứa đựng những điều dối trá và khoác lác. Thế mà cũng có lắm kẻ tin! Đúng là những kẻ khờ!

Ngày 15 tháng Tư, Chiến đoàn 52 bị địch đánh từ hai phía: Phía Nam, từ ngã ba Dầu Giây (vị trí này chúng chiếm được đêm 13 tháng Tư) do Sư đoàn 6 án ngữ. Đơn vị này còn có nhiệm vụ bám sát, cầm chân Trung đoàn 8 của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thuộc Sư đoàn 5BB tại Hưng Nghĩa. Nhiệm vụ thứ hai là bố trí quân chận đánh Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi sẽ ra cứu viện từ Biên Hòa. Nhiệm vụ thứ ba là chận đánh quân cứu viện từ Xuân Lộc. Trung đoàn 274 đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiên cố tại đèo Mẹ Bồng Con. Trung đoàn 812 thì đang bố trí quân tại những khu rừng cao su của đồn điền Suzannah. Lực lượng án ngữ phía Nam tại ngã ba như cái đe, để phía Bắc, Trung đoàn 95B như cái búa, với sự trợ lực của các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 vừa được lệnh rút ra khỏi Xuân Lộc, như Tướng Lê Nam Phong viết:

“Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công vào các mục tiêu trong thành phố, và chuyển ra tấn công trên QL1 để cô lập Xuân Lộc”.

Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định cư tại Miami, Florida), một Đại đội trưởng xuất sắc của TĐ3/52, từng lập được nhiều chiến công tại mặt trận An Điền – Rạch Bắp tháng 6 năm 1974, đã cho người viết biết như Thiếu tá Phan Tấn Mỹ (Ý Yên) viết trong bài Trận Đánh Đồi Móng Ngựa: “Hồi nửa đêm 11 tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía đông bắc Đồi Móng Ngựa hạ sát 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301 - Nay đề cử 4 đồng chí (lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư 1975 - Ngày chấm dứt nhiệm vụ: 30.4.75”

Khi mặt trận ngã ba Dầu Giây bùng nổ, Chiến đoàn 52 bị tấn công, Tướng Toàn, TL/QĐIII cho lệnh Lữ đoàn 3 xung kích của Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom (Biên Hòa) mở cuộc hành quân tiếp cứu.

Lực lượng của Tướng Khôi rất mạnh. Lữ đoàn 3 Xung kích có trên 200 chiến xa M-41, M-48 và thiết quân vận M-113, được thành lập thành 3 Chiến đoàn 315, 318 và 322. Mỗi Chiến đoàn đều có 1 Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết. Nhưng lực lượng chận viện của quân CSBV lại hùng hậu hơn. Ngay từ những ngày đầu của trận chiến Xuân Lộc, Sư đoàn 6/CSBV đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiêng cố từ xã Hưng Lộc đến đèo Mẹ Bồng Con. Quân của Tướng Khôi vừa đi vừa đánh, nên nhịp độ tiến quân quá chậm. Trên đường từ Trảng Bom ra Bàu Cá, từ Bàu Cá đến Hưng Nghĩa, quân của Tướng Khôi  đã gặp các cụm kiềng chốt của Sư đoàn 6 ngăn chận. Với 2 Chiến đoàn 315 và 322, quân của Tướng Khôi tiến theo trục lộ QL1. Mặc dù cố gắng diệt chốt nhanh, tiến lẹ, để có thể bắt tay Chiến đoàn 52 đang bị vây khốn tại ấp Nguyễn Thái Học, nhưng kết quả không như ý muốn. Theo J. Veith, tác giả của “Fighting Is An Art”, Chi đoàn 1/15 của Đại úy Bảng có Tiểu đoàn 64/BĐQ tùng thiết, đã thành công khi chiếm ngọn đồi 122, một cao điểm ở hướng Bắc Hưng Lộc. Nhưng địch nhanh chóng tổ chức phản công. Lực lượng của Tướng Khôi đã không vượt qua khỏi ngọn đồi này. J. Veith viết lại theo lời tường thuật của Đại úy Bảng: “Quân địch đông như kiến, chúng mở những đợt tấn công biển người từ ba hướng…Trong tình trạng tuyệt vọng, tôi yêu cầu Chiến đoàn bắn pháo và không yểm. Thật không may mắn, chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng võ trang đến bắn yểm trợ…Bắc quân tiếp tục tấn công, mỗi lúc càng thêm ác liệt. Tôi nghĩ rằng VC sẽ tràn ngập ngọn đồi hay bao vây chia cắt…Thình lình, VC rút lui, trận đánh tàn lụi. Chúng tôi tổn thất 20, BĐQ lối 40. Xác địch nằm la liệt…” (có thể thời điểm đó là lúc CĐ52 đã bị quân giặc tràn ngập).

Không có quân cứu viện, địch mỗi lúc điều thêm quân vào trận, áp lực đè nặng.

“Về chiều, pháo giặc càng gia tăng nóng nảy dữ dằn hơn. Căn hầm Đại tá Dũng bị sập. Hai chiếc xe tăng M-41 bốc khói ngùn ngụt ở cuối sân. Ông Dũng thoát khỏi hầm an toàn, lem luốc, chạy sang BCH/TĐ3/52 đặt gần thung lũng. Cây anten dựng lên, lại bị đánh gãy nằm gục bên sân. Bên kia sân, Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước toàn thân đen đúa tiếp tục điều khiển tác xạ…” (Thiếu tá Phan Tấn Mỹ: Trận Đánh Đồi Móng Ngựa)

Xe pháo ngổn ngang, khói đen bốc lên ngùn ngụt, phòng tuyến vỡ. Địch đã xông vào bên trong. Tiếng la xung phong của địch, giọng nói đặc sệt bắc kỳ nghe rõ mồn một qua ống liên hợp máy PRC-25, xen lẫn tiếng cầu cứu của Trung tá Chiến đoàn phó Đổ Văn Tân.

Tại đồi Móng Ngựa, cao điểm trông xuống QL20, do Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ. Từ lúc 5 giờ sáng, Cộng quân bắt đầu bắn pháo. Sơn pháo địch từ Núi Ma, từ các cánh rừng bao quanh liên tiếp nã vào ngọn đồi. Sau đó là những đợt xung phong biển người. Trận đánh để làm chủ ngọn đồi đã xảy ra vô cùng ác liệt. Quân bạn cố giữ, quân địch cố chiếm. Ta bắt được một số tù binh. Chúng thuộc Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 95B vừa từ Cao Nguyên xuống. Đến 8 giờ 30, Đại đội 4/3 của Thiếu úy Mai Mạnh Liêu được lệnh tăng viện. Hai Đại đội 1 của Trường và 4 của Liêu được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đại úy TĐP Hà Văn Cho.

Cùng chung số phận với BCH/CĐ, đồi Móng Ngựa đã đón nhận hàng ngàn trái đạn pháo của giặc. Đến 2 giờ chiều, Tiểu đoàn 2/95B/CSBV bắt đầu xua quân tràn lên đồi. Pháo địch pháo ta, bộ đội giặc và lính của ta giao tranh đẩm máu để giành nhau từng tấc đất. Cứ sau những đợt pháo cường tập, bộ đội CSBV dàn hàng ngang tiến lên. Lớp trước ngã, lớp sau đạp xác đồng đội tiến lên. Trận tử chiến tiếp diễn ác liệt. Quân giặc như những con thiêu thân cứ lao vào ánh đèn, chết vô số. Xác địch chồng chất, cây rừng gãy đổ. Màu xanh của cây cỏ biến thành màu đỏ của máu, máu đỏ của những thân xác “Sinh Bắc Tử Nam”. Ngọn đồi xanh ngát với những vòng cao độ tạo thành thế hình móng ngựa, chỉ trong thời gian ngắn, đã biến thành bình địa. Đạn pháo ta và địch đã làm thay đổi các vòng cao độ của ngọn đồi! Thiếu úy Mai Mạnh Liêu, ĐĐT/ĐĐ4 báo cáo:

“…Không còn cái gì tồn tại chung quanh chúng tôi hết. Xác địch nằm ngỗn ngang trên mặt đồi, cây cối chung quanh hoàn toàn bị tiêu rụi thành bình địa. Thân cây và xác chết chồng chất lên nhau hàng đống, từng này chồng lên từng kia…”.

Nhìn xuống QL20, thấy quân CSBV di chuyển trên lộ chật đường, đông như kiến, giống như đoàn người đi trẩy hội. Chúng thuộc đơn vị nào? Phải chăng như Trần Văn Trà viết:  “Quân đoàn 1 xuất phát từ sông Hồng, Quân đoàn 3 thì có sư đoàn từ Tây Nguyên lại có sư đoàn từ ven biển quật lên theo đường 11 đi Đà Lạt rồi theo đường 20 vào”. Liêu xin bắn pháo. Pháo từ Chiến đoàn, pháo từ Núi Thị tới tấp rót xuống. Chúng dạt ra hai bên đường. Lúc ngưng pháo, chúng lại tiếp tục di chuyển. Giòng người cứ trôi  như giòng thác lũ. Một toán chỉ huy địch chạy vào một căn nhà ngói đầu ấp, căn nhà bị đánh sập, và không thấy chúng xuất hiện trở lại. Bọn chúng đã bị pháo ta tiêu diệt.

Trước khi trời tối, đồi Móng Ngựa bị giặc tràn ngập. Ngọn đồi bị chiếm vì quân ta hết đạn. Cây súng trở thành cây gậy. Bắn hết đạn, giặc tràn lên, quân ta đành phải rút chạy!

Tình hình trở nên nguy kịch. Đồi Móng Ngựa đã lọt vào tay giặc. Từ những cánh rừng cao su chung quanh, quân CSBV xổng lưng tiến vào vị trí quân bạn đã tan nát vì những trận mưa pháo tàn bạo. Giặc đã tràn vào phòng tuyến. Tiếng nói của Đại tá Dũng và Trung tá Đổ Văn Tân im bặt. Những ai còn sống sót phải rút chạy về Biên Hòa. Tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây hoàn toàn tan rã.

Quân CSBV đã mở được con đường xâm nhập vào Sàigòn không cần phải đi qua Xuân Lộc.

Khi hoạch định kế hoạch đánh chiếm Xuân Lộc, bọn đầu sỏ CS nghĩ rằng sẽ nuốt chửng Xuân Lộc, cũng dễ dang như lấy đồ trong túi. Với tính chủ quan được tích lũy từ trận đánh Phước Long, trận Ban Mê Thuột, trận đường 7B, chiếm Huế, chiếm Đànẵng, các tỉnh Miền Trung và Cao Nguyên, Tướng Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà đã suy nghĩ quá đơn giản. Chúng không hề dự trù những tình huống khó khăn sẽ gặp và sẽ đối phó ra sao. Mặc dù chúng đã cho lệnh Đoàn 75, tức Bộ Tư lệnh pháo binh của Miền bố trí trận địa pháo tầm xa 130ly tại Hiếu Liêm (ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai) để khống chế sân bay Biên Hòa và chi viện cho Quân đoàn 4.

Pháo của giặc tuy có gây trở ngại cho hoạt động của ta. Nhưng các phi tuần chiến đấu F-5E, A-37,…vẫn xuất kích yểm trợ đắc lực cho quân bạn tại Xuân Lộc. Các chuyến bay trực thăng tải thương và tiếp tế đạn dược cho mặt trận vẫn vào ra Xuân Lộc đều đặn. Sau ngày 12.4, người dân Xuân Lộc đã sinh hoạt trở lại. Đó là sinh hoạt của người dân trong thời chiến, dưới đạn pháo của giặc.

Khi Xuân Lộc bị tấn công, hai Pháp kiều là chủ đồn điền S.I.P.H và Túc Trưng bị quân CSBV bắt trong đêm, vì lầm tưởng họ là cố vấn Mỹ. Được thả ra, hai Pháp kiều đến Núi Thị trình diện TĐT/TĐ2/43. Họ là những người rất am tường địa thế. Các đồn điền cao su bao quanh Xuân Lộc, hầu hết thuộc tài sản của họ. Họ đã chỉ trên bản đồ những vị trí tập trung quân CSBV, những kho hậu cần, những con đường vận chuyển tiếp liệu. Một trong hai Pháp kiều là cựu Trung úy Dù, từng tham dự trận Điện Biên Phủ, người kia có vợ là người Việt, có đứa con trai riêng của người vợ đang phục vụ trong lực lượng NQ/LK. Những tin tức thuộc loại A1 này đã được gửi ngay về Phòng 2/SĐ. Phối hợp và kiểm chứng cùng các tin tức khác, Tướng Đảo cho đánh bom chính xác vào các mục tiêu, làm tiêu hao đáng kể sinh lực của quân xâm lăng CSBV. Do TĐT/TĐ2/43 có những tin tức thuộc loại A1, Tướng Đảo cho biết ông có những phi vụ đánh bom đặc biệt gọi là “Commando Vault”, xử dụng loại máy bay C-130, chở nhiều bom. Một thứ “tiểu B-52”.

“Vào những tháng cuối cuộc chiến, BTTM xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào các cuộc dội bom chiến thuật. C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện chứa 4 thùng dầu phế thải. C-130 thả từ cao độ 15 đến 20 ngàn bộ (5-7 cây số). Chu vi sát hại có đường kính từ 150-450 mét.

C-130 có thể chở 32 trái bom loại 250-500 cân. Đây là những ‘mini-B-52’ hay ‘B-52 VN’. Phi vụ đầu tiên thả xuống chiến khu C ở Tây Ninh. Lời đồn không quân Hoa Kỳ trở lại loan truyền nhanh chóng” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).

Trước khi xin đánh 2 trái BLU-82, Tướng Đảo gọi TĐT/TĐ2/43: “Tôi có cái này hay lắm, nếu có tin tức chính xác, Bảo Định gửi liền cho tôi”.

Trận chiến 12 ngày đêm tại Xuân Lộc đã gây thiệt hại đáng kể cho quân CSBV với hơn 6 ngàn tên chết tại trận. Đó là những thân xác ‘Sinh Bắc Tử Nam” bị phơi thây trong những vòng rào kẽm gai bao quanh thị xã, trong những khu tử giác, trong những vũng sình lầy, hay những thân xác đếm được trong các cuộc phục kích. Lực lượng xe tăng quân CSBV tham chiến tại trận Xuân Lộc không biết được con số chính xác là bao nhiêu (những ngày đầu là 1 Trung đoàn, sau đó được tăng cường thêm 1 Đại đội xe tăng nữa). Số xe tăng của giặc bị tiêu hủy đếm được là 37 chiếc. Sự thiệt hại đó của quân CSBV là do các chiến binh tại phòng tuyến Xuân Lộc bắn hạ bằng vũ khí cá nhân, vũ khí cộng đồng và pháo hay bom. Số lượng cộng quân bị sát hại tại các chỉ huy sở, tại các vị trí hậu cần, những tuyến đường chuyển quân và tiếp liệu, cũng như sự thiệt hại do hai trái bom BLU-82 là không kiểm chứng được. Nhưng qua sự kiểm chứng gián tiếp là các báo cáo của các tên thủ trưởng tham chiến, nhận định tình hình chiến sự của Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, cũng như lời thú nhận của tên Lê Đức Thọ, ta có thể khẳng định con số thiệt hại của cộng quân là gấp bội lần so với con số được đếm được. Tại mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, khi cộng quân tràn ngập tuyến bố phòng của TĐ1/43, một số chạy thoát được, nhưng có một số bị bắt sống, khi được dẫn đến trình diện tên Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng, hắn nói:

“May mà các anh gặp đơn vị tôi, nếu gặp đơn vị kia (ý hắn muốn đề cập đến các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 bị thiệt hại nặng tại góc mặt trận Tây – Bắc thị xã, tại Núi Thị, và nhất là bị hai trái bom BLU-82) thì bị bắn ngay tại chỗ.”

2/- HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI ĐỘI TRINH SÁT 43

Vào những ngày cuối, Đại úy Nguyễn Văn Tỷ bàn giao chức vụ Đại đội trưởng, ĐĐTS43 cho Trung úy Dương Trọng Khoát. Khoát xuất thân từ khóa 25/VBQGĐL, đang là ĐĐT/ĐĐ1 của Tiểu đoàn 2/43.

Sau khi Quận Định Quán thất thủ vào sánh sớm ngày 19.4.75, Tiểu đoàn 2/43 được lệnh lui về hậu cứ Núi Thị, Trung đoàn 43 cũng lui về phòng thủ thị xã Xuân Lộc, giao lại vùng trách nhiệm cho Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng. Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Khoát vẫn tiếp tục hoạt động khu vực Núi Ma. Núi Ma là ngọn núi cao nhất vùng. Hướng Tây trông xuống Quốc lộ 20 (đường đi Đà Lạt), hướng Nam trông xuống Quốc lộ 1.

Khi Chiến đoàn 52 tan hàng tại Ngã ba Dầu Giây chiều ngày 15.4, giao lộ QL20 và QL1 bị bỏ ngỏ. Nhưng một phần sườn phía Tây của Núi Ma vẫn còn sự hiện diện của quân bạn (ĐĐTS43), và một phần sườn đồi phía Đông Nam, trông xuống Núi Thị (căn cứ của TĐ2/3 và một TĐ Pháo hổn hợp của SĐ18BB) thì do Trung đội Biệt kích của Tiểu đoàn 2/43 chiếm cứ. Ngay trong đêm mở đầu trận chiến Xuân Lộc, đơn vị này đã tiêu diệt gọn một toán trinh sát và điều khiển pháo của cộng quân, khiến địch đã mất đi “một con mắt” ở hướng này. Chính nhờ hoạt động hữu hiệu của hai đơn vị này mà cộng quân không thể len lỏi đến gần đặt pháo để quấy phá Núi Thị. Trong những ngày của trận chiến, Núi Thị chỉ bị pháo từ xa, đó là các hỏa tiển 120, cối 130, hay sơn pháo 75ly.

VI. NỖI KINH HOÀNG CỦA CÁN BINH CSBV

1/. BOM BLU-82 (thường gọi CBU-55)

Dư luận quần chúng, và ngay cả Hà Nội, hai trái bom thả xuống Mặt trận Xuân Lộc là bom CBU-55. Hà Nội và cả Bắc Kinh đều la làng rằng Mỹ - Ngụy đã xử dụng bom “Tiểu nguyên tử”, có tầm sát thương lớn.   Theo “Tuyến Thép Xuân Lộc” của Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, được Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng P3/BTTM/QLVNCH xác nhận, đó là loại BLU-82 (Daisy Cutter). Khi Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận đề nghị, P3 trình Đại tướng TTM. Nếu Mục tiêu được chấp thuận, chính Trưởng P3 đích thân trao cho TL/KQ biết để thi hành. Bom được chuyên viên Quân cụ và Không quân đưa lên phi cơ, loại C-130. Bom để trên một dàn gỗ (palette), có đeo dù. Phi công phụ trách thả bom, phải là phi công giỏi bay đêm. Tư lệnh Quân đoàn phải chịu trách nhiệm trực tiếp đến sự an nguy của quân bạn.

Chiều ngày 15.4, khi Chiến đoàn 52 bị tràn ngập, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc đề nghị lên Quân đoàn, Quân đoàn đề nghị về BTTM cho sử dụng loại bom có sức công phá mạnh để tiêu diệt quân xâm lăng CSBV.

 Hai trái bom được xử dụng tại Mặt trận Xuân Lộc tháng Tư năm 1975 là bom BLU-82. BLU-82 là chữ viết tắt của Bomb Live Unit – 82. Bom nổ ở độ cao, tạo ra một đám mây có đường kính lối 100 mét, dày hơn 2 mét. Gặp lửa, đám mây tỏa ra một nhiệt lượng cao, tạo ra áp lực 1.000 pounds/square inch, đổ ập xuống mục tiêu. Bom sẽ đốt hết dưỡng khí trong một khu vực rộng 2 mẫu Anh, và mọi sinh vật trong khu vực sẽ chết trong tình trạng tự nhiên. Bom nặng 15.000 pounds, chứa gas hổn hợp Propane và TNT. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom có loại văng miểng, có loại gây hơi ép.

Tại Xuân Lộc ngày nay, có một cây cầu nhỏ bắc qua một khe suối, có thể là suối Đá Bàn, được người dân địa phương gọi là “Cầu 6 ngàn”. Phải chăng đó là địa điểm Chỉ huy sở Sư đoàn 341/CSBV bị 2 trái BLU-82 đánh. “Sáu ngàn” là con số quân xâm lăng CSBV đền tội vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Có người thắc mắc về con số “6 ngàn”. Chỉ huy sở của một sư đoàn sao lại có nhiều bộ đội như vậy? Có thể đó là địa điểm “tập kết” của Quân đoàn 3 từ Cao Nguyên xuống. Theo Trần Văn Trà, có đơn vị vào tới thì đạn dược chưa tới, xe tăng hết xăng dầu, đạn pháo chỉ còn 1, 2 viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.

 Ngày 12.4.1975, khi quân Dù được trực thăng vận đổ xuống tăng viện cho Xuân Lộc, cũng là lúc Tướng Trần Văn Trà đến Chỉ huy sở của QĐ4. Trà đã trao cho Hoàng Cầm kế hoạch tác chiến mới theo đó, Sư đoàn 341 rút ra, bổ sung quân số, vũ khí và đạn dược, sẵn sàng yểm trợ Trung đoàn 95B từ Cao Nguyên xuống và Sư đoàn 6 đang bố trí quân tại vùng ngã ba Dầu Giây diệt tuyến bố phòng của CĐ52.

Nhà cầm quyền Hànội tuyên truyền rằng 2 trái bom đã giết chết 200 người dân xã Xuân Vinh. Nhưng vào thời điểm này xã Xuân Vinh chưa có. Xã được thành lập sau ngày 30.4.75, bao gồm các ấp Bình Lộc, Bảo Vinh A và B. Lúc đó vùng rừng núi này là khu vực trú quân của Sư 341/CSBV, không hề có bóng dáng của thường dân. Nếu có “thường dân”, chỉ là bọn Du kích địa phương.

Sau khi hai trái bom BLU-82 được thả xuống vị trí tập trung quân CSBV và Chỉ huy sở Sư đoàn 341, quan thầy Trung cộng phản đối ầm ĩ (Frank Snepp – Decent Interval), Hànội cũng la làng phản đối trong 2 ngày liền. Chúng cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đã trở lại. Nhưng thực tế quá phũ phàng, “Hoa Thịnh Đốn vẫn tiếp tục nhắm mắt làm ngơ…”(Điện tín của Thiếu tướng Homer Smith, the U.S. defense attaché in Saigon gửi Tướng George Brown, the chairman of the Joint Chiefs of Staff in Washington: ‘But Washington continued to turn a blind eye…’ ).

Nếu bom không gây thiệt hại lớn thì đối phương đã không cần phải la làng lớn giọng như vậy. Ta còn 5 trái trong kho đạn, nhưng không có ngòi nổ! Nếu Hoa Kỳ thỏa mãn đủ số bom do BTTM/QLVNCH yêu cầu và cung cấp đủ ngòi nổ, liệu giặc có còn đủ quân để tiến về Sàigòn? Hànội có 21 sư đoàn, nhưng đã tung 16 sư đoàn bao vây Sàigòn với 5 hướng. Chỉ cần đánh mỗi hướng 4 trái là đủ để tiêu diệt hết sinh lực của giặc. Và chắc chắn chúng ta đã không có ngày 30 tháng Tư đen!

Hai trái bom đã gây thiệt hại nặng cho quân CSBV, nhưng sự thiệt hại của chúng là không kiểm chứng được. Vì thời gian là những ngày tàn của cuộc chiến. Nhưng sự thiệt hại đó, ít nhất là 75% tại chỉ huy sở của Quân đoàn 4. Cùng với sự thiệt hại sau 12 ngày ác chiến, Quân đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm coi như gần sạch túi! Tin tức từ nguồn tin do hai Pháp kiều cung cấp cho biết, trong nhiều ngày, họ đã chứng kiến những chiếc xe bò vận chuyển suốt ngày để chở xác chết và thương binh bộ đội CSBV. Mỗi chiếc chất đầy tử thi hoặc thương binh, cùng những vũ khí gãy nát, ngổn ngang đầy xe, trông như đống củi.

Lịch sử Bộ đội Quân Y/CSBV viết: “Trong tác chiến tại Xuân Lộc, Long Khánh và xung quanh, Quân đoàn 4 đã có 1,888 thương vong.” Đó là con số bộ đội bị thương vong được các đồng chí của chúng mang về trạm xá. Còn con số rơi rớt dọc đường, mắt kẹt trong các hàng rào kẽm gai, hay bị bom pháo làm nát thây thì Bộ đội Quân Y không biết được.

2/. THẨM QUYỀN CHO LỆNH ĐÁNH BOM BLU-82

Về việc ai cho lệnh thả hai trái bom BLU-82, cho đến nay vẫn còn mơ hồ. Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” (Đứa con cầu tự) viết:

“The most powerful weapon in our arsenal was an American-made cluster bomb…One aircraft with a few cluster bombs could kill everything within a square kilometer.

Because it was so powerful, however, Thieu feared that someone might drop one on his palace; permission to use a cluster bomb required his personal order. One day Operations called to say that an enemy division had encircled one of our bases. Our people asked for air support…so I asked the air force commander. He said that he had no authority to authorize their use. I asked the chief of the joint general staff; his answer was the same. I called several generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called the primer minister, Tran Thien Khiem.

“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”

I called the chief of operations back and said, “Okey, use it.” He accepted my authority, and the resulting air strike was the last time we inflicted major casualties on the enemy.” 

(Tạmdịch: Vũ khí mạnh nhất trong kho vũ khí của chúng tôi có được là bom chùm. Một chiếc máy bay với vài quả bom chùm có thể tiêu diệt mọi thứ trong phạm vi một cây số vuông.

Tuy nhiên vì nó quá mạnh, Thiệu sợ ai đó có thể thả vào Dinh của mình; việc cho phép sử dụng loại bom chùm đòi hỏi phải có lệnh của ông ta. Một ngày nọ, Trung tâm Hành quân gọi nói rằng một sư đoàn địch đang bao vây một trong những căn cứ của ta. Họ yêu cầu không yểm…vì vậy tôi đã hỏi Tư lệnh Không quân. Ông ta nói không có thâm quyền. Tôi hỏi Tổng Tham Mưu Trưởng, câu trả lời cũng như vậy. Tôi gọi một vài tướng lãnh, mỗi vị đều trả lời không có thẩm quyến. Tôi biết rằng nếu tôi hỏi Thiệu, ông ta sẽ cân nhắc một lúc lâu, nên tôi gọi Thủ tướng Trần Thiện Khiêm.

“Tùy anh,” ông ta trả lời sau khi tôi giải thích tình hình. “Bảo họ rằng tôi đồng ý.”

Tôi gọi lại cho Trung tâm Hành quân và nói, “OK hãy sử dụng nó” Ông ta đã chấp nhận quyền hạn của tôi, và kết quả của cuộc không kích là lần cuối cùng, chúng tôi đã gây tổn thất lớn cho địch.”

Tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc này chỉ là Tướng “không quân” đúng nghĩa. Không chức, không quyền, không trách nhiệm, ông không thể ra lệnh ai, và không có ai dám thi hành lệnh của ông (nếu không muốn ra Toà án Quân sự). Tướng Kỳ là một người ăn nói “ba hoa thiên địa”, ai cũng biết. Ông cũng hay nói phét. Nội cái tựa đề quyển sách “Buddha’s Child”, ông còn chua thêm câu: “My Fight To Save Vietnam” thì thật là quá đáng.

Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Xung kích cũng cho rằng chính ông đã cho lệnh đánh hai trái bom đó:

“Lực lượng địch và Lực lượng Xung kích QĐIII giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngả ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU-55 của Không quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. (Chuẩn tướng Trần Quang Khôi – Chiến Đấu Đến Cùng).

Tuyến phòng thủ CĐ52/SĐ18BB của Đại tá Ngô Kỳ Dũng bị quân CSBV tràn ngập lúc chiều tối ngày 15.4. Tàn quân phải bỏ vị trí về Long Bình. Tuyến phòng ngự CĐ52 đã vỡ 7 tiếng đồng hồ trước khi 2 trái bom BLU-82 được xử dụng. Nếu Tướng Khôi có thẩm quyền cho lệnh đánh hai trái bom đó (giả dụ thôi), thì đánh để tiêu diệt địch chứ không phải “để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. Vì CĐ52 đã bị tiêu diệt rồi! Cần phải sửa lại câu văn cho chính xác. Người viết (nằm tại cao điểm Núi Thị) đã có dịp làm trung gian cho hai Tướng Khôi và Đảo nói chuyện khi Chiến đoàn 52 bị cộng quân tấn công. Qua cuộc điền đàm của hai vị Tướng, tôi không thấy có một hành động tích cực nào của Tướng Khôi để cho lực lượng của ông giải cứu Chiến đoàn 52 của Đại tá Dũng đang cơn hấp hối. Theo Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định cư tại Miami, Florida) và Thiếu úy Mai Mạnh Liêu (hiện định cư tại Rosemead, California) thuộc TĐ3/52, là những người sống sót rút chạy sau cùng cho biết, trên đường từ ngã ba Dầu Giây đến Bàu Cá, họ chỉ gặp vài chiếc xe M.48 và một toán BĐQ nằm bố trí tại vùng vườn cam gần Sở Chăn nuôi.

Hai trái bom BLU-82 được thả xuống Chỉ huy sở và Hậu cần của Sư đoàn 341 vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Theo Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/Bộ TTM/QLVNCH, chính BTTM và BTL/KQ quyết định cho đánh 2 trái bom đó. Và chỉ có 2 trái mà thôi, vì người bạn đồng minh Mỹ chỉ cung cấp 2 ngòi nổ! Tướng Viên cho biết, cuối tháng 2/1975, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp những trái bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Hoa Kỳ gửi 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện. Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường, BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom.

“Đêm 15.4.75, sau khi Cộng quân tràn ngập vùng ngã ba Dầu Giây, Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, đã quyết định đề nghị BTTM cho xử dụng hai quả bom ‘Daisy Cutter’…Kết quả hai trái bom ‘Daisy Cutter’ đã loại khỏi vòng chiến khoảng 2 Sư đoàn Cộng quân (hơn 10 ngàn quân)”. (Những Sự Thật Chiến tranh Việt Nam 1954-1975).

“Vào 1 giờ sáng phi cơ thả trái ‘Daisy Cutter’ đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động-bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy”.

“Gần những ngày tàn của cuộc chiến, cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ sài, dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến lược, có sức tàn phá mạnh…BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom ‘Daisy Cutter’ cất cánh vào lúc nửa đêm…” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).

Theo Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTTM/QLVNCH, đó là loại bom BLU-82 (Daisy Cutter), chứ không phải CBU-55:

“Tôi xin xác nhận với anh, đó là loại BLU-82 (Daisy Cutter) chứ không phải CBU-55. Tụi tôi chuẩn bị các mục tiêu theo đề nghị của các Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận…trình Đại tướng xin chấp thuận. Mục tiêu được Đại tướng chấp thuận rồi, tôi trao cho Không quân. Chỉ có Tư lệnh Không quân biết và thi hành; mọi mục tiêu đều là ‘Tối mật’ hết.” (Đại tá Hứa Yến Lến – Tuyến Thép Xuân Lộc)

Mục tiêu đánh bom là phía Nam Kiệm Tân, gần đường QL20. Trong buổi phát thanh ngày 21 tháng Tư, đài Hànội cũng xác nhận vùng bị đánh bom là ở giữa Biên Hòa và Xuân Lộc.

VII- LUI BINH

“Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết

Như một vành tang bịt đất trời

Chân theo quân rút, hồn ta ở

Sông nước La Ngà pha máu sôi”

(Nửa Hồn Xuân Lộc - Nguyễn Phúc Sông Hương, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng TĐ3/48)

1/- NGUYÊN NHÂN:

Mặt trận phía Tây thất bại, nhưng quân ta đang thắng lớn tại Xuân Lộc. Dù sao sức người có hạn. Quân ta ngày càng mòn mỏi, đạn dược cạn dần. Trong lúc đó Hànội đã tung vào Nam tất cả những gì chúng có. Cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” được thành hình từ 1 Trung đội Tuyên truyền Giải phóng quân, đến nay đã lên đến 21 Sư đoàn. Khi phát động chiến dịch tổng tấn công VNCH từ đầu tháng 1 năm 1975, Hànội chỉ để lại 1 Sư đoàn giữ nhà, còn lại đưa vào Nam tất cả. Vùng biên giới Việt – Trung thì có các Sư đoàn Trung cộng trấn giữ. Theo các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê Bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, viết trong quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975”, Tướng CSBV Văn Tiến Dũng được 5 Tướng cố vấn Nga Xô bày mưu tính kế (theo tin tức tình báo của Tướng Pháp Vanuxem). Ngày trước đánh Điện Biên Phủ, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng được các cố vấn Tàu phù Trần Canh, Lã Quí Ba, chỉ dạy cách đánh.

Quân đoàn 2 và một số đơn vị thuộc Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh đã vào đến Rừng Lá.

Quân đoàn 1 xuất phát từ bờ Sông Hồng cũng đã vào đến.

Quân đoàn 3 từ Đàlạt theo đường QL20 đang trên đường xuống.

Xuân Lộc giờ đây đã trở thành ốc đảo giữa biển giặc mênh mông.

Bên ngoài phòng tuyến Xuân Lộc, Tiểu đoàn 2/43 đã lấy lại kiểm soát đến xã An Lộc, đèo Mẹ Bồng Con, đến chân Núi Ma, sân bay An Lộc và Bệnh viện đồn điền cao su S.I.P.H. (máy bay của đồn điền đã đáp xuống an toàn mang lương phát cho công nhân). Đơn vị cũng hoạt động đến ấp Núi Đỏ, và xã Tân Lập. Giao thông liên lạc đã tái lập từ Núi Thị đến thị xã, nhưng chỉ đi băng qua rừng cao su, không ra ngõ Cua Heo để tránh bị bắn sẻ.

Hướng Đông – Bắc, quân ta hoạt động xa ngoài vòng đai thị xã, kiểm soát đến ấp Bảo Vinh A và B.

Hướng Đông – Nam, Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7/CSBV đang bị quân Dù bao vây chia cắt. Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 141 hầu như bị xoá sổ. Quân Dù kiểm soát đến ấp Bảo Định và Bảo Bình.

Hướng Nam, Chiến đoàn 48 hoạt động đến căn cứ Long Giao.

Nhưng Xuân Lộc giờ đây đã mất hết vai trò chủ yếu. Xuân Lộc không còn là nút chận quân xâm lăng CSBV, vì đối phương đã tránh Xuân Lộc, đang điều quân đi vòng. Chúng chỉ để lại Sư đoàn 7 của Lê Nam Phong đánh cầm chân Sư đoàn 18BB của Tướng Lê Minh Đảo và Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh. Trong lúc đó địch đang tập trung quân quanh Sàigòn, chuẩn bị tiến công từ 5 hướng.  Biên Hòa cách Sàigòn 30 cây số, có một phi trường quân sự quan trọng, cần bảo vệ. BTL/QĐIII quyết định Sư đoàn 18BB và Lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc phải triệt thoái.

2/- DIỄN TIẾN:

Ngày 20 tháng Tư năm 1975, lúc 9 giờ sáng, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn, có Đại tá Hoàng Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTL/QĐIII tháp tùng vào Xuân Lộc. Tại đây ông cho lệnh Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh mặt trận, rút toàn bộ lực lượng tham chiến ra khỏi Xuân Lộc trong nội ngày hôm đó. Lệnh vừa ban ra buổi sáng, vào lúc quá trưa, các đơn vị đã nhận được Lệnh Hành Quân khá chi tiết. Nhờ vậy các cánh quân lui binh nhịp nhàng, trong im lặng, theo thế chân vẹt, nên quân CSBV đã không phát hiện kịp thời. Một đại đơn vị với hơn 5.000 quân, rầm rầm rộ rộ di chuyển mà địch vẫn không hề biết ý định của ta. Chúng nghĩ rằng đó chỉ là việc thay quân bình thường.

Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 2/43 đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trong lúc đại đơn vị di chuyển, hai đơn vị này vẫn tiếp tục chiến đấu, vẫn mở những cuộc tấn công địch. Khi hai đơn vị đoạn hậu này di chuyển thì áp dụng chiến thuật đánh trì hoãn chiến. Bộ đội của Hoàng Cầm dù đang bám sát quân ta, đã hoàn toàn không hề hay biết gì về cuộc hành quân lui binh của đối phương. Đến lúc phát hiện được thì đoàn quân đã về đến Xà Bang, tiền quân đã đến Bình Giả!

Sau khi chiếc trực thăng của Tướng Toàn vừa cất cánh rời Xuân Lộc, với khả năng nhạy bén, Tướng Đảo đã có ngay một kế hoạch Hành quân Lui binh trong đầu. Thông thường phải triệu tập các đơn vị trưởng, tổ chức ngay cuộc họp khẩn cấp tại BTL/SĐ18BB. Nhưng trong tình thế hiện tại, dù không còn khả năng tấn công, địch đã gia tăng cường độ pháo. Những trận mưa pháo của quân CSBV rót xuống Xuân Lộc, theo vài ký giả phương Tây, còn ác liệt và có tính cách hủy diệt hơn hồi trận Điện Biên Phủ! Vả lại các đơn vị trưởng đang mặt đối mặt với quân thù, không tiện rời bỏ vị trí. Ông Tướng đã gặp riêng Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ để truyền đạt lệnh. Phát thảo Kế hoạch Điều quân Lui binh của ông được Phòng 3/SĐ soạn thảo chi tiết. Để đạt được yếu tố “Bí Mật”, Lệnh Hành Quân phải chuyển tay đến các đơn vị trưởng. Lệnh phải được thi hành ngay, các đơn vị phải “Nhanh Chóng” chuẩn bị. Có gì không rõ, phải trực tiếp hỏi Tư lệnh, nếu không thì cứ thế mà thi hành.

Lộ trình cuộc triệt thoái là LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long Khánh đi Bà Rịa của Phước Tuy. Ông cho lệnh Phi hành đoàn chiếc trực thăng chỉ huy (C&C) bay quan sát lộ trình.

Đoàn quân sẽ di chuyển khi màn đêm buông xuống. Xưa nay hành quân hay đánh đêm là sở trường của địch. Thông thường quân ta chỉ tiến ngày ban ngày, ban đêm thì co cụm và phòng thủ. Tướng Đảo ấn định giờ xuất phát lúc 7 giờ tối là một “Bất Ngờ” đối với địch.

Khi các đơn vị trưởng nhận được Lệnh Hành Quân, lệnh chi tiết hơn đã được soạn thảo chuyển xuống cho các đơn vị cấp thấp thi hành. Tiểu đoàn 2/43 trấn giữa cao điểm Núi Thị, vị trí xa nhất trong tuyến phòng thủ Xuân Lộc đã được chính tay Đại úy Nguyễn Văn Khiêm, Ban 3/CĐ43, vượt rừng cao su, trao tay vào lúc quá trưa. Riêng ĐĐ43TS của Trung úy Dương Trọng Khoát đang hoạt động khu vực Núi Ma, chỉ biết lệnh khi quá nửa đêm.

Kế hoạch điều quân cuộc Lui binh như sau:

1.      CĐ 48 do Trung tá Trần Minh Công, Trung đoàn trưởng 48 chỉ huy, mở đường.

2.      BTM/HQ/SĐ18BB, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, các Tiểu đoàn Pháo binh, Công Binh, Tiểu đoàn 18 Tiếp vận, 2 khẩu đại bác tự hành 175ly, và các đơn vị kỷ thuật, lập thành đoàn cơ giới do Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ chỉ huy.

3.      BCH/TKLK và các đơn vị trực thuộc do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng chỉ huy.

4.      CĐ 43 gồm các đơn vị cơ hữu và Tiểu đoàn 82/BĐQ, do Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43 chỉ huy.

5.      LĐ1ND và TĐ2/43 do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐ1ND chỉ huy, đi đoạn hậu. Kể từ 7 giờ tối 20.4.75, TĐ2/43 vào hệ thống truyền tin của LĐ1ND, đặt dưới quyền chỉ huy của LĐT/LĐ1ND. Đến 12 giờ đêm, TĐ2/43 trở lại hệ thống truyền tin và chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn, di chuyển đến ngã ba Tân Phong gặp LD1ND, sẽ xuất phát trước.

6.      Chuẩn tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo sẽ di chuyển bộ cùng cánh quân của CĐ43,  do TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ.

7.      Chiếc trực thăng chỉ huy của Tư lệnh (C&C) sẽ do Đại tá Ngô Kỳ Dũng bay bao vùng.

8.      Đội hình hành quân theo thế chân vẹt, hầu bảo đảm an toàn cho các cánh quân khi di chuyển.

 

Hành quân lui binh là loại hành quân khó khăn , nhất là khi phải tiến hành dưới áp lực và hỏa lực của địch. QLVNCH đã hơn một lần thảm bại cay đắng trong cuộc triệt thoái hay di tản chiến thuật hồi trung tuần tháng 3 năm 1975 từ Cao Nguyên về Duyên Hải miền Trung. Thiệt hại của đoàn quân triệt thoái ít nhất là 75% khả năng tác chiến. Tại Quân đoàn I, cuộc triệt thoái chiến thuật cũng thất bại.

Cuộc Hành quân Lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng Tư năm 1975 đã thành công tốt đẹp. Toàn bộ Sư đoàn, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ và Lữ đoàn 1 Dù đã di chuyển về đến Bình Giã – Bà Rịa thuộc tỉnh Phước Tuy an toàn. Nhưng LĐ1/Dù do vừa di chuyển, vừa phải chiến đấu để bảo vệ đồng bào các ấp Bảo Định và Bảo Bình đi theo, nên chịu một số thiệt hại. Tiểu đoàn 2/43 với nhiệm vụ đánh trì hoãn chiến, đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng, do đó bị thiệt hại nặng nhất, lối 50%. Nhưng nhìn chung, cuộc Hành quân Lui binh của các lực lượng tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc là một thắng lợi to lớn.

Mặc dù ở trong thế mặt đối mặt, quân của hai bên có thể nói chuyện với nhau được, thế mà khi quân ta rút ra, bắt đầu di chuyển từ lúc 7 giờ tối, mãi đến gần 3 giờ sáng, Tướng Cầm mới hay biết để tổ chức đơn vị truy kích.

TĐ9Dù cùng Trung đội PB/Dù rời Long Giao lúc 4 giờ 30 sáng. TĐ2/43 rời căn cứ Núi Thị lúc 5 giờ sáng.

Đường LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long Khánh và Bà Rịa của Phước Tuy, dài trên 40 cây số. Con đường này do quân đội đồng minh sửa chữa và mở rộng. Khi quân đội đồng minh rút, con đường bị bỏ hoang phế.

Tướng Đảo đã có một quyết định khá táo bạo khi chọn con đường này làm lộ trình triệt thoái. Quyết định táo bạo đó của ông là yếu tố bất ngờ đối với cộng quân.

Tướng Trà viết Hồi ký, đã tiên đoán quân ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa: “Hai là rút chạy khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa…Vì vậy ta không được để lơi lỏng đối với lực lượng địch ở Xuân Lộc mà phải kèm kỹ…” Tiên đoán của Trà được viết trong hồi ký, chứ không phải được phán đoán hay suy nghĩ trước khi lực lượng tham chiến Xuân Lộc rút đi! Thực tế như Hoàng Cầm thú nhận trong quyển Lịch sử Quân đội Nhân dân: “Chúng tôi đã không phát hiện kịp thời cuộc di chuyển quân của Sư đoàn 18 để tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chặn”. Hai Tướng CS viết hồi ký đã đưa ra những địều mâu thuẫn. Nếu Trà đã “tiên đoán”, sao không ra lệnh cho Cầm bố trí một lực lượng mạnh trước để có thể phát hiện kịp thời mà chận đánh.

Dù đạt được yếu tố bất ngờ của cuộc Hành quân Lui binh, nhưng đã có những cuộc chạm súng lẻ tẻ. Từ sau Hiệp định ngừng bắn Paris, VC thường xuyên phục kích đắp mô trên con đường này. Đó cũng là hành lang giao liên giữa các mật khu VC trong vùng. Đây cũng là địa bàn hoạt động của Trung đoàn 33/Quyết Thắng Long Khánh. Những cuộc chạm súng tuy không lớn, nhưng cũng làm cho quân bạn chịu một số tổn thất: Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng bị bắt. Trung tá Tham Mưu trưởng Lê Quang Định bị tử thương. Quân Dù cũng chịu một số thiệt hại. Trên con đường LTL.2, quân Dù là đơn vị di chuyển sau cùng. Khi quân Dù đã đi qua, Tướng Hoàng Cầm phát hiện, đã tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chận. Từ đó, con đường hoàn toàn bị đóng.

Theo Thiếu úy Tài, hiện định cư tại Tiểu bang Massachussetts, sĩ quan Tiền sát Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Dương Trọng Khoát cho biết, đơn vị này vẫn chiến đấu quyết liệt với quân CSBV cho đến 11 giờ đêm. Buổi chiều, Đại úy Quyền, Pháo đội trưởng PĐ/B của TĐ181/PB/SĐ gọi Thíếu úy Tài, yêu cầu chấm mục tiêu những nơi tập trung quân của CSBV để bắn pháo. Tài lấy làm lạ sao hôm nay căn cứ Pháo tại Núi Thị chơi sang! Tài đâu biết rằng Pháo đội của Đại úy Quyền cần bắn cho hết đạn để di chuyển nhẹ nhàng!

Khi màn đêm buông xuống, như thường lệ, quân CSBV lại mở nhiều đợt tấn công biển người vào vị trí của Đại đội 43/TS. Trận chiến thật ác liệt, có lúc phải đánh cận chiến. Nhưng những người lính Trinh sát vẫn giữ vững vị trí. Hai khẩu pháo còn lại tại Núi Thị bắn ào ạt, như trút cơn giận dữ lên đầu giặc. Pháo của địch cũng dội lên đầu quân bạn không ngớt. Thiếu úy Tài vẫn bình tĩnh điều chỉnh pháo. Những loạt đạn bắn gần, đã phá tan đội hình tấn công của địch. Vài trái đạn nổ ngay trên tuyến phòng thủ, Khoát bị thương, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu.

Lối 11 giờ đêm, Khoát liên lạc được với Bảo Định (TĐT/TĐ2/43), yêu cầu được dẫn quân qua Núi Thị. Nhưng Bảo Định nói hãy dẫn quân ra ngã ba Tân Phong, gặp TĐ2/43 ở đó rồi cùng rút. Đơn vị của Khoát không thể đến được điểm hẹn. Quân CSBV bố trí cùng khắp trong các cánh rừng cao su, trong các khu rừng chồi. Có những đơn vị cộng quân đi lạc do những tên chỉ huy kém cỏi, không xác định được điểm đứng. Đó là trường hợp của Tiểu đoàn 8 thuộc Sư đoàn 341, nên được giao nhiệm vụ chốt chặn, nhằm không cho các đơn vị QLVNCH tiếp viện hay rút lui. Có thể đơn vị cộng quân này chốt chặn TĐ2/43 tại phòng tuyến Núi Thị, vì chúng đang bố trí quân khu vực xã An Lộc và Tân Lập, cách Núi Thị vài cây số về hướng Tây. Trên đường hành quân ra ngã ba Tân Phong, ĐĐ43TS chạm súng đơn vị địch thuộc Trung đoàn 274 đang kiềng chốt tại khu vực đèo Mẹ Bồng Con. Khoát phải cho đơn vị đổi hướng về hướng Tây. Sau nhiều ngày luồn lách, hành quân xuyên qua các căn cứ địa của VC, vừa đi vừa đánh, quân số bị hao hụt nhiều. Buổi trưa ngày thứ năm của cuộc vượt thoát, Khoát thấy một chiếc trực thăng đang nhởn nhơ trong bầu trời cao. Đơn vị dùng kính “mắt thần” của Viễn thám chiếu lên phi cơ. Một lúc sau trực thăng quay lại, liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn giặc, trên một khoảng trống nhỏ, cố bốc đi những quân nhân sống sót. Nhưng không bốc hết được, phải để lại một số. Trực thăng quá tải, cố ngóc lên, cố ngóc lên cao, nhưng chỉ có thể rà rà trên ngọn cây, lướt về hướng QL1. Trực thăng thả quân xuống một căn cứ pháo, rồi vội vã quay lại bốc nốt những người lính còn sót. Chiếc trực thăng cứu nạn đó là của Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Biên Hòa, đang bay quan sát: “Qua nghi là mấy em lắm mà…”,  giọng nói thân tình “huynh đệ chi binh”. “mấy hôm nay nghe bên Sư đoàn đang bay tìm số quân nhân thất lạc trong rừng. Yên chí đi, Qua không bỏ mấy em đâu…”

Khi đi qua thị xã, TĐ2/43 di chuyển bên ngoài, cách xa vài trăm mét. Cộng quân lố nhố trong thành phố, xe molotova chạy qua lại, dù trời đã sáng, xe vẫn còn mở đèn pha, thị xã sáng rực! Nhưng hầu như việc ai nấy làm. Cộng quân vào thành phố thì lo hôi của. Đoàn quân triệt thoái thì lo di chuyển theo lộ trình ấn định.

Buổi sáng thật yên ả. Không có tiếng “đại bác vọng về”, không có tiếng máy bay gầm rú. Trời cao và xanh trong.

Từ 7 giờ tối, khi đại quân bắt đầu di chuyển, 2 khẩu pháo được lệnh tác xạ liên tục. Tác xạ quấy rối, tác xạ nghi binh, cũng là tác xạ cho hết đạn. Trường hợp này cũng giống như Trương Phi trong Tam Quốc Chí, cùng 20 người ngựa, tại cầu Trường Bảng, đã mưu trí dùng những nhánh cây cột vào đuôi ngựa cho chạy lui, chạy tới trên đường, làm cho đất bụi bay mù trời, hầu đánh lừa quân Tào Tháo. Nhờ hành động mưu trí này của Trương Phi, đại quân của Lưu Bị đã rút lui an toàn. Sau khi hai khẩu pháo bị phá hủy, vùng trời Xuân Lộc hoàn toàn im vắng. Lúc đó là 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975.

Lối 7 giờ sáng, trong cái im vắng của bầu trời Xuân Lộc, chiếc C&C của Tư lệnh xuất hiện, bay từ hướng Bình Giả lên. Khi bay ngang đầu, Đại tá Ngô Kỳ Dũng, CĐT/CĐ52 đang ngồi trên đó, không phải Tướng Đảo, chuyển lệnh của Tướng Đảo cho TĐT/TĐ2/43: “Hủy bỏ lộ trình cũ, di chuyển về hướng Tây. Điểm tập trung tại Long Thành trên QL15”. TĐ2/43 phải tìm “Sinh lộ trong Tử địa”. Khi chiếc C&C bay đi, bầu trời trống không. Không một chiếc máy bay nào vào vùng. Pháo binh cũng im bặt. Thật khác hẳn không khí rộn ràng trong suốt 12 ngày đêm vừa qua. Lúc đó máy bay đủ loại vần vũ trên bầu trời. Lưới đạn đan nhau. Khói súng mịt mờ. Đạn pháo ầm ầm, pháo địch pháo ta. Giờ này thì tất cả đều lặng yên. Một thứ lặng yên ma quái, rất kinh người!

Đang im lặng di chuyển trong khu rừng cao su phía Tây căn cứ Long Giao, đơn vị tiền quân chạm địch. Một cuộc chạm súng ngắn ngủi. Những người lính TĐ2/43 tràn lên như thác lũ, đã đè bẹp một ổ kháng cự của giặc cở 1 Trung đội. Chúng không phản ứng kịp, đã bị tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn trưởng định cho đơn vị nghỉ ngơi một lúc. Nhưng từ hướng Đông, một đoàn xe molotova trên 10 chiếc, chở đầy bộ đội CSBV đang theo các con đường lô cao su tiến vào. Đơn vị nhanh chóng đổi hướng về hướng Bắc. Nhưng lại chạm địch. Trong hoàn cảnh không có máy bay và pháo binh yểm trợ, đại đơn vị thì đang trên đường di chuyển, đánh nhau với địch lúc này là bất lợi. Nếu quân sĩ bị thương vong thì lại càng phiền toái hơn. TĐT quyết định đoạn chiến. Lại chuyển hướng di chuyển về hướng Tây. Đơn vị đi xuyên qua những căn cứ địa VC, tiêu diệt gọn những tên cán binh “giữ nhà”, nếu gặp giặc đông thì tránh. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào!” Trước khi trời tối, Tiểu đoàn đi đến một khu rừng rậm. Đơn vị chia làm hai cánh, một do TĐT chỉ huy, và một do Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn Chi chỉ huy. Vì hoàn cảnh đơn vị di chuyển lẽ loi không có phi pháo yểm trợ, trong khu rừng đầy căn cứ địa của đối phương, hiện do Sư đoàn 341 chiếm cứ, nên TĐT cho lệnh đơn vị phải tránh chạm súng, để tránh thương vong. Nếu bất đắc dĩ phải nổ súng, phải đoạn chiến ngay, phải tìm cách phân tán mỏng, phải di chuyển nhanh ra điểm tập trung tại Long Thành, trên QL15.

Cánh quân do TĐT chỉ huy chạm súng liên miên. Cuối cùng chỉ còn 27 người sát cánh cùng TĐT. Toán quân vượt thoát ngày nghỉ đêm đi, giữ im lặng vô tuyến. Máy truyền tin mang theo nghe Sư đoàn và Trung đoàn gọi, nhưng không thể trả lời, vì sợ đối phương định vị, tìm đến tiêu diệt. Từ sáng sớm đến chiều tối, Sư đoàn và Trung đoàn thay nhau dùng trực thăng hay L.19 bay đi tìm. Mãi đến 5 ngày sau, khi đã thoát ra ngoài vòng vây, toán quân vuợt thoát 28 người được trực thăng đến bốc. Vài ngày sau, những người lính thất lạc cũng tìm được cách ra đến Long Thành để được xe GMC đón về Long Bình. Trước ngày tan hàng, đơn vị lại tụ họp còn khoảng 50% quân số.

Chỉ có 3 chiếc trực thăng đến bốc 28 quân nhân thất lạc trong khu rừng trong cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18BB, nhưng tin tức loan truyền sai lạc, và đã được phóng đại rất xa sự thật.

Tướng Lê Minh Đảo di chuyển bộ cùng với CĐ43 của Đại tá Hiếu, có TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ gần:

“Đoàn quân vẫn tiếp tục đi. Tư lệnh vẫn vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa…

“Đại tá Hiếu thì cứ luôn luôn bận tâm đứa con đi đoạn hậu, TĐ2/43, đơn vị này bắt đầu rời Núi Thị…”

“Khi đến ngả ba Xà Bang, Tướng Tư lệnh đã mệt lắm rồi, “Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không?”

“Cố lên đi Thiếu tướng! Tôi vừa nói vừa kéo tay Tư lệnh tiến lên.”

(Tháng Tư Lại Về - Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long)

Nhưng kẻ địch, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh B2, rất sung sướng khi trích dẫn những lời viết dối trá của Frank Snepp trong quyển “Decent Interval” để biện hộ cho thất bại của mình với ảo tưởng thắng trận: “…Rạng ngày 21, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính phủ tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của sư đoàn 18 quân đội Việt nam cộng hòa với viên tư lệnh, tướng Đảo, được kéo chạy khỏi thành phố đổ nát bằng máy bay lên thẳng”. Đoạn văn này được Luật sư Hoàng Cơ Thụy trích, viết trong quyển “Việt Sử Khảo Luận” của ông ấy, rồi lại được Luật sư Nguyễn Văn Chức trích lại, viết trong một loạt bài công kích Tướng Đảo trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong, với văn phong và ngôn ngữ của Miền Nam: “Trực thăng đã đến bốc cái tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của sư đoàn 18, kể luôn tướng Lê Minh Đảo. Có 600 trăm người dưới quyền Đại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ”. Tại sao Frank Snepp viết như vậy? Là một phân tích gia C.I.A (CIA Analyst), cũng là một nhà báo ngồi tại Sàigòn, chỉ cách Xuân Lộc 70 cây số, Snepp phải biết rõ là không phải như vậy. Nhưng anh ta vẫn viết như vậy. Rồi bản tin của anh ta đã bay cùng khắp thế giới. Snepp cố tình đánh lừa dư luận. Có phải Frank Snepp mang mặc cảm tội lỗi của một người bạn đồng minh bất tín. Với tin tức do Quân đoàn 4 cung cấp hàng ngày, Trần Văn Trà cũng phải biết sự thật không phải như vậy, nhưng hắn vẫn viết như vậy. Hắn đã rất sung sướng khi vớ được bản tin bôi bác này của Frank Snepp. Hay Trà cũng mang mặc cảm nô lệ như Luật sư Chức, chỉ thiếu lời bàn Mao Tôn Cương như ông Luật sư:“Đây là do Mỹ nói nhé”

Lúc đến Bình Giã, Đại tá Hiếu, báo cho Tướng Đảo biết quân Dù đang chạm súng mạnh với cộng quân tại biên giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy, TĐ2/43 thì vừa xuống núi, đang di chuyển ngang qua thị xã để đến điểm hẹn tại ngã ba Tân Phong. Tướng Đảo liền cho lệnh Đại tá Dũng đang bay trên chiếc C&C bao vùng, hướng về Xuân Lộc, chuyển lệnh cho TĐT/TĐ2/43 phải lập tức hủy bỏ lộ trình cũ, đưa đơn vị băng rừng ra hướng Long Thành trên QL15.

Mặc dù Lui binh là một cuộc hành quân khó khăn nhất trong chiến tranh, cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18 đã thành công. Các đơn vị đều rút ra an toàn, chỉ bị những thiệt hại nhỏ. Đó là cái giá phải trả khi đơn vị đang ở thế mặt đối mặt với quân địch. Riêng TĐ2/43, đơn vị đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng là bị thiệt hại nặng. Nhưng sự thiệt hại của TĐ2/43 được đổi lại cho đại quân được an toàn trên đường triệt thoái thì cũng xứng đáng.

Sự thành công tốt đẹp của cuộc hành quân lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện không phải do may mắn. Cũng không phải do đối phương đã kiệt quệ. Chính Trần Văn Trà đã chỉ thị cho Hoàng Cầm sử dụng lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc.  Sự thành công là nhờ vào kế hoạch được soạn thảo chu đáo, thi hành nhanh chóng, đạt được yếu tố bí mật và bất ngờ.

Tướng Đảo đã chọn hai đơn vị thiện chiến chịu trách nhiệm đi đoạn hậu. LĐ1Dù đánh trì hoãn chiến, và TĐ2/43 đánh nghi binh. Hai đơn vị này gồm các binh sĩ giỏi chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm chiến trường và rất dũng cảm.           

Trong đêm lui binh, vào những giờ đầu của cuộc hành qưân, LĐ1Dù vẫn hoạt động bình thường. Điều khó khăn là làm sao rút ra mà đối phương không biết. Và quân Dù đã làm được. Quân Dù đã giữ được an toàn cạnh sườn trái này của cuộc di tản.

TĐ2/43 trấn giữ Núi Thị, vị trí xa nhất về hướng Tây – Bắc của chiến tuyến. Nếu quân CSBV ở hướng Bắc thị xã có hay biết và tổ chức bộ đội truy kích, chúng phải tiêu diệt Tiểu đoàn 2/43 trước, rồi mới có thể tổ chức đội hình tấn công cạnh sườn phải của đoàn quân triệt thoái.  

Khi đại đơn vị bắt đầu di chuyển, TĐ2/43 vẫn hoạt động bình thường. Các toán tiền đồn và phục kích vẫn đi đến những vị trí ấn định. Trung đội BK/TĐ hoạt động sườn phía Đông của Núi Ma, cách BCH/TĐ lối 2 cây số về hướng Bắc vẫn bám trụ. Chính vì vậy mà lúc 3 giờ sáng, khi có lệnh di chuyển, Trung đội này phải mất gần 2 tiếng đồng hồ mới về tới với Tiểu đoàn. Những người lính Biệt kích Tiểu đoàn phải di chuyển thế nào để đối phương không phát hiện. Hai khẩu pháo 105ly còn lại vẫn tác xạ quấy rối đều đặn. Lối 11 giờ đêm, tên Thủ trưởng, tên Chính trị viên, cũng có thể là một tên cán bộ cao cấp đặc trách về binh vận, vào tần số Tiểu đoàn, gặp TĐT để tuyên truyền. Có thể hắn là người có trình độ, hay chỉ là cái máy, giống như con vẹt, tuôn ra những điều đã được viết sẵn. Hai bên đấu lý, trao đổi qua lại mãi đến gần 2 giờ sáng. Chính những hoạt động này của TĐ2/43, đã đánh lừa được cánh quân này của CSBV. Chúng chỉ phát hiện được sau 7 giờ sáng, khi TĐ đã rời xa căn cứ Núi Thị, đang di chuyển gần ấp Núi Đỏ, sát thị xã.

Kế hoạch hành quân được Phòng 3/SĐ soạn thảo tỉ mỉ. Các cánh quân rút lui theo đội hình thế chân vẹt, do đó luôn luôn có quân sẵn sàng chiến đấu, và hỏa lực sẵn sàng yểm trợ cho quân bạn. Trên không thì có trực thăng bao vùng.

 

“Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi đến Long Giao…Lệnh cho tôi phải ở lại Long Giao và sẵn sàng tác xạ để yểm trợ cho LĐ1Dù đang ở lại…Chúng tôi đã liên lạc được với LĐ1Dù và bắn yểm trợ cho họ…trước khi chúng tôi được lệnh tiếp tục di chuyển…đơn vị Dù thay thế chúng tôi sẽ đến ngay sau khi chúng tôi đi khỏi nơi này…”(Đại úy Nguyễn Hữu Nhân, PĐT/PĐA/ TĐ181PB/SĐ – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân Lộc).

Pháo đội Dù chỉ xếp càng pháo khi người lính cuối cùng của LĐ đến Long Giao.

Tinh thần quân sĩ rất vững vàng, đang lên cao do những thắng lợi suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến. Điều quan trọng là cuộc triệt thoái chỉ thi hành theo lệnh, không phải do chiến bại để phải tháo chạy.

Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, các đơn vị thường xuyên có những sinh hoạt chính huấn, huấn luyện cách xử dụng súng chống chiến xa, và đặc biệt, Tướng Tư lệnh đến nói chuyện với đơn vị nhiều lần để động viên tinh thần quân sĩ. Thật là không mấy dễ khi cả Vùng 1 và Vùng 2 đều đã lọt vào tay giặc, tuyến phòng ngự mạnh ở Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy cũng thất thủ, dân tỵ nạn từ ngoài Trung chạy vào, hết đợt này đến đợt khác, chính quyền Long Khánh phải lập trại tỵ nạn gần ngã ba Tân Phong. Lẫn lộn trong đoàn người tỵ nạn, có một số quân nhân bỏ ngũ, sự việc này dễ ảnh hưởng xấu đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ, thế mà tinh thần các chiến binh Sư đoàn 18BB vẫn không lung lay.

Trước khi trận đánh khai diễn, Tiểu đoàn 18 Quân Y, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân, và gia đình binh sĩ được di chuyển về hậu cứ Sư đoàn ở Long Bình.

Sự thất bại của Quân đoàn II trong cuộc hành quân triệt thoái trên đường 7B là vì lẫn lộn trong đoàn quân, có nhiều đàn bà, trẻ em thuộc gia đình binh sĩ, và nhiều thường dân đi theo (có đến 400 ngàn dân vùng Cao Nguyên chạy lánh nạn cộng sản–theo Nguyễn Đức Phương/CTVNTT), nên đã làm vướng bận các đơn vị quân đội. Các đơn vị khó xoay xở lúc chiến đấu.

Rút kinh nghiệm từ sự thất bại trên đường triệt thoái ở Vùng 2 và Vùng 1, Tướng Đảo đã cho TĐ18QY, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân và gia đình binh sĩ di chuyển về hậu cứ Long Bình từ trước khi xảy ra trận chiến. Tuy nhiên khó khăn cũng phát sinh khi Quân Dù bị vướng bận dân chúng hai ấp Bảo Định và Bảo Bình lánh nạn Cộng sản, gồng gánh đi theo. Quân Dù vừa đánh giặc, vừa phải bảo vệ dân, nên đã chịu một số thiệt hại.

Nhưng yếu tố quan trọng hơn hết là do vị chủ soái, Tướng Lê Minh Đảo cùng chịu gian nguy với quân sĩ. Ông không xử dụng trực thăng C&C để chỉ huy từ trên cao, mà di chuyển bộ cùng quân sĩ.

Trong cuộc Hành quân Lui binh từ Xuân Lộc đi Bà Rịa, và cuộc Lui binh lần thứ hai từ Long Bình về Thủ Đức, Tướng Đảo và Bộ Tham mưu đã di chuyển bộ cùng đoàn quân. Việc vị chủ soái dấn thân cùng chịu gian nguy như quân sĩ dưới quyền là một trong những yếu tố thắng lợi.

3/- HẬU QUẢ:

Theo tâm lý thông thường của người chiến binh, đang đánh nhau, ở trong thế mặt đối mặt mà rút lui không đánh nữa, là đã thất bại. Cuộc hành quân Lui binh dù tốt đẹp, đã gây ảnh hưởng tâm lý không tốt đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ.

Quân và dân VNCH cứ lui, lui dần từ Quảng Trị, qua Duyên hải Miền Trung, đến Hàm Tân. Rồi Xuân Lộc cũng bỏ. Người dân Biên Hòa cũng đang tìm cách lánh nạn Cộng sản về Sàigòn. Cảnh tượng như đàn cá đang bị lùa vào rọ. Sàigòn thất thủ chỉ là vấn đề thời gian.

VIII. NHẬN XÉT        

1/- LINH HỒN TRẬN CHIẾN XUÂN LỘC

Có người nói, “mạnh quân, mạnh chi tướng”. Đúng. Chiến thắng Xuân Lộc là chiến thắng của tất cả người dân Xuân Lộc, tất cả những chiến binh tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc. Chính vì thế mà trước khi Sàigòn thất thủ, Bộ TTM/QLVNCH đã ban hành Sư Vụ Văn Thư về việc vinh thăng một cấp cho tất cả những người lính tham dự trận chiến Xuân Lộc. Riêng Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc đã được Tổng thống Trần Văn Hương vinh thăng cấp Thiếu tướng ngày 25.4.1975.

Trong những loạt đạn pháo đầu tiên của giặc bắn vào Xuân Lộc khi mở cuộc tấn công vào lúc sáng sớm ngày 9.4.1975, vài trái đạn xuyên qua mái nhà, rớt trúng ngay phòng ngủ của Tướng Đảo. Nếu Tướng Đảo bị tử vong ngay lúc đó thì chuyện gì sẽ xảy ra?

Một lần khác, ngay sau khi phái đoàn báo chí Tây phương rời Xuân Lộc, pháo binh cộng quân đánh hơi, đã trút trận mưa pháo tàn bạo vào nơi Tướng Đảo vừa tiếp phái đoàn. Ông bị một mảnh đạn pháo ghim vào cánh tay. Nếu mảnh đạn trúng ngay chỗ hiểm, ông phải tản thương, thì trận chiến có diễn tiến thuận lợi như đã xảy ra?

Không ai có thể phủ nhận Tướng Đảo là linh hồn của Trận chiến Xuân Lộc. Chính quyền Hànội đã nhốt ông 17 năm trong các trại giam từ Nam ra Bắc. Bởi vì ông là “Đạo diễn” của Chiến thắng Xuân Lộc. Hay nói một cách khác, ông là “Người Hùng Xuân Lộc”, cũng như Tướng Lê Văn Hưng là “Người Hùng An Lộc”. Nhưng ông không muốn gọi là người hùng. Ông nói: “Xin đừng gọi tôi là người hùng. Những người lính của tôi hy sinht tại Xuân Lộc và hàng trăm trận chiến trước đó mới thật sự là những Anh Hùng.”

Nói như George Jay Veith, một sử gia người Mỹ, “Không cần gọi Lê Minh Đảo là người hùng. Những sự thật tự nó đã nói lên điều đó”- There is no need to call Le Minh Dao a hero. Some truths are self-evident. (Fighting Is An Art). 

2/- PHÁO BINH CSBV:

Người mù đi đường cần có cây gậy chỉ đường. Bắn pháo cần có Sĩ quan Tiền sát để chỉ điểm và điều chỉnh đạn sao cho trúng mục tiêu, không rơi vãi ra ngoài vừa tốn đạn vừa gây thiệt hại hoa màu và nhà cửa của dân chúng. Sĩ quan QLVNCH dù không thuộc Binh chủng Pháo binh, đều được huấn luyện về cách gọi pháo và điều chỉnh pháo. Nếu không có các toán tiến sát viên đi theo, người sĩ quan QLVNCH cũng biết cách gọi pháo và điều chỉnh pháo. Mỗi Tiểu đoàn Bộ binh chỉ được cung cấp 1 Toán Tiền sát Pháo. Do đó các Sĩ quan cấp Trung đội hay Đại đội đều phải biết cách điều chỉnh pháo. Một phóng viên Tây phương khi đến thăm mặt trận Xuân Lộc ngày 13.4 đã không ngớt ca ngợi trình độ tác chiến tuyệt vời của Sĩ quan QLVNCH, nhất là cách gọi phi pháo yểm trợ. Quân CSBV thì không được như thế. Trình độ tác chiến thấp kém, vì chủ trương “hồng hơn chuyên”. Ngay cả tên Tư lệnh Quân đoàn là Thiếu tướng Hoàng Cầm cũng chỉ mới biết đọc và biết viết! Trong những ngày vây hãm Sàigòn, pháo giặc bắn bừa bãi vào khu dân cư, trường học, bệnh viện, và phố xá. Trại David trong phi trường Tân Sơn Nhất, nơi cư ngụ của Phái đoàn CS, cũng bị “ăn” pháo của chúng, đã gây thiệt mạng cho 1 đại úy, 1 thượng sĩ, và 5, 6 “đồng chí” khác trong đó có 1 trung tá!

Sư đoàn 341/CSBV của Đại tá Trấn Văn Trấn khi được lệnh đánh Xuân Lộc đã  gửi 2 toán tiền sát pháo tiếp cận mục tiêu cho hai mũi tấn công chính của hắn. Một cho hướng tấn công của Trung đoàn 270 vào căn cứ hỏa lực Núi Thị, và một cho hướng tấn công của Trung đoàn 266 vào thị xã Xuân Lộc. Mặc dù pháo binh đồi dào, nhưng hiệu quả kém, vì “tai mắt” của chúng đã bị tiêu diệt ngay từ khi trận chiến mới bắt đầu hoặc chưa bắt đầu.

Toán tiền sát pháo cho hướng tấn công vào Núi Thị đã bị Trung đội BK/TĐ2/43 tiêu diệt gọn tại Núi Ma (một cao điểm đối diện với Núi Thị) ngay trước giờ trận đánh mở màn. Do đó pháo địch đã không gây ảnh hưởng gì đến giàn pháo hùng hậu của quân bạn tại đây. Chỉ có vài loạt đạn pháo bắn vu vơ rơi vào BCH/TĐ, hai pháo đội đặt ở thế đất thấp bên dưới, và một pháo đội đặt ở chân núi. Hầu hết pháo giặc bắn qua đầu, rơi vào rừng cao su, và tuyến phòng thủ của Đại đội 3/2. Cũng chính vì vậy mà đơn vị này bị thiệt hại do pháo giặc nhiều nhất, đã gây tử thương cho 1 Đại úy ĐĐT, 1 Thiếu úy ĐĐP, và nhiều binh sĩ.

Toán tiền sát pháo cho hướng tấn công vào thị xã, đã xâm nhập vào được bên trong, đặt tại một căn gác nhà dân, cách Tư dinh Tướng Tư lệnh lối 500 mét. Những loạt đạn pháo đầu tiên được toán tiền sát này điểu chỉnh trúng ngay ngôi nhà đặt làm BTL/TP và TTHQ/SĐ. Nhưng toán Viễn thám Đại đội 18 Trinh sát của Đại úy Phạm Hữu Đa phát hiện được. Những người lính dũng cảm của Đa liền bò đến gần, chỉ hai trái M.72, đã tiêu diệt gọn toán tiền sát giặc, đếm được 10 tên. Từ đó, pháo giặc không rơi vào vào Dinh Tư lệnh nữa, mà rơi bừa bãi vào khu nhà dân, khu trường học, khu bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc.

3/- QUỐC LỘ 1 CÓ THỂ ĐƯỢC KHAI THÔNG:

Quân đoàn 4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ có 1 Trung đoàn xe tăng, gồm các loại PT-76 (tương đương với M.113) và T.54 (tương đương với M.41). Trong ngày đầu của trận chiến, Trung đoàn xe tăng này tăng cường cho mũi tấn công Sư đoàn 7 ở hướng Đông thị xã Xuân Lộc. Sau ba ngày giao tranh, một số lớn xe đã bị tiêu hủy.

Lữ đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi rất mạnh. LĐ có khoảng 250 xe gồm M.113, M.41 và M.48 (quân CSBV chưa có loại xe tương đương).

Ngày 9 tháng 4, khi quân CSBV tấn công Xuân Lộc, TĐ1/52 và CĐ52 vẫn giữ vững ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/43 vẫn kiểm soát một khu vực rộng lớn từ xã An Lộc (gần đèo Mẹ Bồng Con), sân bay đồn điền cao su, đến cánh rừng cao su chạy sát vòng đai phía Tây – Bắc thị xã.

Quân CSBV chỉ có 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 33/Sư 6 tiến đánh Hưng Lộc và Hưng Nghĩa. Lực lượng NQ và Nhân dân Tự vệ ở đây đã chống trả quyết liệt. Sau đó giặc chỉ chiếm được xã Hưng Lộc. Một Tiểu đoàn khác tiến đánh ấp Phan Bội Châu. Trung đoàn 274 tiến đánh một phần ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ bảo vệ), và Đèo Mẹ Bồng Con. Địa thế ở đây rất thuận lợi cho giặc tổ chức hệ thống kiềng chốt. Một con suối chảy qua, nối liền Núi Ma ở phía Bắc QL1 và cánh rừng cao su đồn điền de Suzannah ở phía Nam.

Nhưng lực lượng mạnh của LĐ3XK (có 3 Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết) của Tướng Khôi và Trung đoàn 8/Sư đoàn 5BB của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thiết nghĩ việc khai thông QL1 là khả thi. Nhưng BTL/QĐIII đã không có một kế hoạch nào để giải tỏa. Và LĐ3XK của Tướng Khôi chỉ bố trí quân từ Trảng Bom ra đến Bầu cá.

4/- NGÃ BA DẦU GIÂY GIỮ ĐƯỢC, CĐ52 KHÔNG TAN, NẾU:

Khi CĐ52 của Đại tá Dũng bị quân CSBV tấn công ngày 15 tháng 4, LĐ3XK của Tướng Khôi được lệnh cứu viện. Tướng Khôi và Tướng Đảo nói chuyện với nhau phải qua trung gian của TĐT/TĐ2/43 ở tại điểm cao Núi Thị. Qua cuộc điện đàm của hai vị Tướng, TĐT/TĐ2/43 không thấy một tia hy vọng nào cho cuộc cứu viện. Quân của Tướng Khôi đã bị Trung đoàn 33/Sư 6/CSBV chận lại tại phía Bắc Hưng Nghĩa, cho đến khi CĐ52 tan hàng!

Nếu LĐ3XK quyết tâm cứu viện, quân bạn có thể chiếm lại ngã ba Dầu Giây và cứu được CĐ52. Chiếm lại ngã ba Dầu Giây, lập tuyến phòng ngự mạnh tại đây thì đã ngăn chận được quân CSBV tiến xuống từ Cao Nguyên theo QL20.  

5/- NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA QUÂN CSBV:

Bọn đầu sỏ của giặc mang tính chủ quan. Chúng “cứ nghĩ là sau một trận pháo kích kinh hoàng (mà kinh hoàng thật!), nghe tiếng xích xe tăng là tàn quân địch phải tháo chạy, nhưng không ngờ địch không chạy mà tử thủ, thành ra tấn công 2, 3 đợt không thành mà lại thiệt hại lớn.” Điều này cũng dễ hiểu vì chúng dễ dàng tiến công qua Vùng 1 và Vùng 2. Quân giặc đã đi qua những tỉnh thành đã bỏ ngõ, không tốn một viên đạn! Vì không có lực lượng chống trả, hay không được lệnh chống trả, mà chỉ triệt thoái lui binh. Tại Nhatrang tỉnh Khánh Hòa, quân ta đã rút đi trước khi giặc đến. Thành phố vô chính phủ hỗn loạn, thân hào nhân sĩ phải thành lập phái đoàn đi ra tận đèo Rù Rì mời giặc vào tiếp quản!  Chính vì vậy mà Văn Tiến Dũng đã ba hoa: “Cán bộ tham mưu không vẽ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội” (lời nói khoác lác của Văn Tiến Dũng khi bộ đội của hắn chưa vào đến Xuân Lộc). Nhưng có lẽ Tướng Võ Nguyên Giáp và BTTL của ông tại Hànội có cái nhìn hiểu biết hơn, đã điện vào yêu cầu dừng lại, chờ lực lượng bổ sung vào, nhưng không kịp. Sự nôn nóng của đám Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng và Trần Văn Trà muốn lập công sớm đã dẫn đến tổn thất nặng nề. Không chiếm được Xuân Lộc, chúng phải thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn như dự định.

Vì mang tính chủ quan, CSBV đã thất bại nặng nề khi đụng phải TUYẾN THÉP XUÂN LỘC (Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, QLVNCH), hay CÁNH CỬA THÉP (cách gọi của Tướng Lê Nam Phong, cựu Sư trưởng Sư 7/QĐ4/CSBV) : “Chỉ trong 3 ngày đầu chiến đấu đã có 1.500 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 341 và Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 bị thương vong. Ngoài ra còn 3 xe tăng bị bắn cháy, 3 xe bị bắn hỏng. Nghiêm trọng hơn là toàn bộ pháo 85 và 57ly đều hỏng”. (Thư viện Đồng Nai, VN).

6/- QUÂN CSBV ĐÔNG NHƯNG KHÔNG MẠNH:

Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy dù đông, vũ khí hiện đại, đạn dược dồi dào, nhưng không mạnh. Hai Sư đoàn tấn công trực diện vào Sư đoàn 18BB (-), chỉ có Sư đoàn 7 là được, còn Sư đoàn 341 thì quá tệ. Đơn vị này mặc dù được trang bị vũ khí hiện đại, nhưng kinh nghiệm chiến đấu không có. Đa số bộ đội đều ở độ tuổi vị thành niên, vừa mới bị bắt vào lính với cái tên gọi đẹp đẻ là “Trúng tuyển Nghĩa vụ Quân sự”, nên đã dễ dàng đại bại trước những chiến binh dũng cảm và giàu kinh nghiện chiến trường của Sư đoàn 18BB.

Quân CSBV thường áp dụng chiến thuật BIỂN NGƯỜI, một chiến thuật mà quan thầy Trung cộng vĩ đại của chúng đã áp dụng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Tại trận đánh mở đầu Định Quán hồi tháng 3.1975, TĐ2 Trung đoàn 141/CSBV do chính tên Trung đoàn phó Bé Ích Quan trực tiếp chỉ huy, đã “nướng” hết đơn vị này khi hắn liên tục tổ chức những đợt tấn công biển người vào vị trí của TĐ2/43, SĐ18BB, bị những trái đạn chống biển người đốn ngả.

Do đó ta không phải sợ thế giặc đông. Nếu ta quyết chiến, có đầy đủ vũ khí đạn dược, nhất định ta sẽ thắng chúng.

7/- TRÌNH ĐỘ TÁC CHIẾN CÁC CẤP CHỈ HUY CSBV:

Các cấp chỉ huy quân CSBV có trình độ tác chiến dưới mức trung bình, nếu không muốn nói là quá tệ. Chúng chỉ biết “Trung với Đảng, hiếu với Dân”, học thuộc như con vẹt, nhưng không hiểu gì. Về tác chiến, trình độ của chúng thật thấp kém. Cấp chỉ huy từ cấp Đại đội trưởng trở lên, có thể chưa học hay học rồi mà không kịp tiêu hóa, đã không biết cách phối hợp “Nhị thức Bộ binh - Thiết giáp”, theo cách gọi của chúng là “Hợp đồng Binh chủng”. Chính vì thiếu phối hợp, quân CSBV không tận dụng được ưu điểm của thiết giáp. Điển hình tại mặt trận An Lộc hồi mùa hè đỏ lửa 1972 và tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Xe tăng CS tấn công khơi khơi, lẻ loi, không biết phối hợp cùng bộ binh để có sự yểm trợ hỗ tương, nên đã là những miếng mồi ngon cho đối phương.

Các mũi tiến công của Quân đoàn 4/CSBV hoàn toàn bị bẻ gãy. Chúng không chiếm được phần đất nào của thị xã Xuân Lộc. Các cấp chỉ huy của quân CSBV chỉ biết làm theo lệnh một cách mù quáng. Khi gặp tình huống khó khăn, đám cán bộ chỉ huy này không biết xoay xở, hay nói theo ngôn ngữ quân sự là “trường hợp xử trí”. Bọn chúng đã hoàn toàn lúng túng cho đến khi bị tiêu diệt.

Ngày đầu tiên của trận chiến, chỉ có vài đơn vị nhỏ bộ đội thuộc Trung đoàn 266/Sư 341 xâm nhập vào khu chợ Xuân Lộc và bến xe Long Khánh. Nhưng chúng chỉ cố thủ được một thời gian ngắn, sau đó bị Tiểu đoàn 1/43 phối hợp cùng lực lượng ĐPQ/LK đánh bật ra ngoài. Một số đi lạc vào khu phố và trường học thì bị Đại đội 18 Trinh sát của Đại úy Phạm Hữu Đa tiêu diệt hoặc bắt sống. Mũi tiến công Trung đoàn 209/Sư 7 từ hướng Nam thị xã, quặt lên sân bay, thì bị các chiến sĩ mũ nâu chận lại, đánh cho tan tành. Nhiều xe tăng giặc bị bắn cháy. Tại Núi Thị, Trung đoàn 270/Sư 341 đã không mò đến được chân núi. Chúng bị chận lại từ tuyến phòng thủ ngoài cùng. Bị đạn pháo bắn cho tan nát, sau đó phải rút lui. Tên thủ trưởng đơn vị này đã không biết cách điều động quân, không biết cách đánh, nên đã chuốc lấy thảm bại.

Núi Thị là một cao điểm quan trọng. Đáng lý Hoàng Cầm phải ưu tiên tiêu diệt căn cứ hỏa lực này trước khi dốc toàn lực đánh Xuân Lộc. Nhưng cả Hoàng Cầm và tên Sư trưởng Sư 341 Trần Văn Trấn ngu ngốc khi thấy Trung đoàn 270 bị thiệt hại không đánh được Núi Thị, đã cho lệnh rút ra tăng cường cho cánh quân 266 đánh vào thị xã. Chúng đã bỏ mất một cơ hội tốt.

Tướng Hoàng Cầm từng là cán bộ cấp Trung đoàn, tham dự trận đánh Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, nhưng Hoàng Cầm đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì ngoài chiến thuật “tiền pháo hậu xung” và tấn công “biển người”. Nếu không có các Tướng Tàu cộng làm cố vấn, thực tế là cầm quân chỉ huy, Tướng Giáp đã bỏ cuộc sau khi nướng hết 23 ngàn quân trên tổng số 33 ngàn quân. Nhưng Tướng Tàu Vi Quốc Thanh quyết định đánh tiếp với 25 ngàn quân khác, và cuối cùng đã chiến thắng Pháp.

8/. TÙ BINH CSBV ĐƯỢC QUÂN TA ĐỐI XỬ NHÂN ĐẠO:          

Vào khoảng 50 tù binh CSBV bị bắt tại mặt trận Xuân Lộc. Phần lớn đám tù binh thuộc Sư đoàn 341, ở độ tuổi 16 hay 17. Bọn chúng là đám dân quê của các tỉnh Thanh – Nghệ - Tĩnh bị cưỡng bách đi bộ đội với một cái tên hoa mỹ: “Trúng tuyển nghĩa vụ quân sự!”. Đám lính mới này chưa được huấn luyện thì đã theo đoàn quân vào Nam. Trình độ tác chiến rất kém, nếu không muốn nói chúng chỉ là đoàn quân ô hợp. Tên Sư trưởng, Đại tá Trần Văn Trấn cũng không khá hơn. Hắn là tù binh được ngụy trang kỹ, khai chỉ là một y tá, được trao trả ngay trong đợt đầu tiên năm 1973. Sư đoàn tồi tệ của hắn bị thiệt hại nhiều nhất, lại lãnh thêm 2 trái bom BLU-82.

 

VNCH luôn luôn tôn trọng Quy ước Genève về Tù binh. Mỗi quân nhân QLVNCH đều được học tập về cách đối xử nhân đạo với tù binh, theo đúng những điều khoản ghi trong Quy ước. Năm 1957, nhà cầm quyền CSBV đã ký vào Quy ước Genève về Tù binh. Ký thì ký, nhưng chúng không bao giờ tôn trọng những gì chúng ký kết. Bọn họ chỉ là thổ phỉ, đã đối xử rất tàn bạo và dã man mỗi lần quân nhân ta sa cơ thất thế bị lọt vào tay chúng. Chúng bỏ đói, bắt lao động khổ sai, hành hạ đủ điều, khiến nhiều người đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản.   

Tù Binh VCNgoài Quy ước Genève, điều 5 trong Sáu Điều Tâm Niệm của Người Lính VNCH ghi:

“Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù”.

Những tù binh CSBV bị bắt tại mặt trận Xuân Lộc, trước khi được chuyển về Biên Hòa, đã được Sư đoàn nuôi ăn chu đáo. Tướng Lê Minh Đảo đã chỉ thị Sĩ quan Tiếp liệu xuất kho khẩu phần lương khô của đơn vị để nuôi ăn tù binh. Những tù binh bị thương nặng, không tự tay dùng cơm, thì được binh sĩ ta chăm sóc như một “vú em!”

9/. LỮ ĐOÀN 1 DÙ TĂNG VIỆN CHO XUÂN LỘC LÀ ĐỂ PHẢN CÔNG ĐỊCH:

Quân đoàn 4/ CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã tung 2 Sư đoàn 6 và 341 tấn công thị xã Xuân Lộc chỉ có 1 Sư đoàn 18BB (-), nhưng sau 3 ngày giao chiến, quân của Cầm vẫn bị cầm chân bên ngoài thị xã, không chiếm được một tấc đất nào, còn bị thiệt hại nặng. Các chiến binh SĐ18BB, TĐ82BĐQ, ĐPQ và NQ/LK đã chiến đấu rất anh dũng, luôn luôn giữ vững tay súng.

 

“Lúc địch quân bắn 3.000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xã. Hỏa lực của hai bên đều rất dữ dội…Trận đánh kéo dài từ ngày này qua ngày nọ và cứ thế…Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận quyết liệt…CS tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. SĐ18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10.4.75, Cộng quân đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui. Ngày 12.4.75, quân CSBV vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai Trung đoàn của Quân đội Nam Việt Nam (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48) không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công giữ dội hơn. Thêm 3.000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc xé nát mọi vật. SĐ18BB vẫn đứng vững…”

(A. Dawson, Trưởng phòng Thông tin của UPI tại Sàigòn)                                                        

Ngày 12 tháng 4, Xuân Lộc được tăng viện. LĐ1 Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, TĐ3PBDù, ĐĐ1TSDù, ĐĐ3CB, ĐĐ1QYDù được trực thăng vận vào mặt trận, đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng TL/SĐ18BB. Ngay khi vừa đặt chân xuống Xuân Lộc, quân Dù đã mở ngay cuộc hành quân thế công diệt địch.

 

Hoạt động của quân Dù tại Xuân Lộc hoàn toàn trong thế công. Quân Dù nhảy vào Xuân Lộc không phải để cứu Sư đoàn 18BB khỏi bị tiêu diệt. Vì khi quân Dù chưa đến, Xuân Lộc vẫn đứng vững. Không những thế, đã chận đứng tất cả các mũi tiến công, và đánh bại quân xâm lăng CSBV. Trong ba ngày đầu: 9, 10, và 11, Sư 7 của Lê Nam Phong bị hạ sát 300 tên; Sư 341 của Trần Văn Trấn bị 1200 tên; 9 xe tăng bị bắn cháy, toàn bộ pháo 85 ly và 57 ly bị tiêu hủy. Khi quân Dù nhảy vào, lực lượng CSBV từ thế công đã phải chuyển qua thế thủ. Đơn vị này suýt bắt sống toàn bộ 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 141. Sau những trận phản công quyết liệt, các Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 141 đã bị quân Dù xóa sổ.

                                   

10/- LỪA DỐI:

Khi nghe tin “Sài Gòn được giải phóng”, người dân Miền Bắc và người dân Hà Nội đã bật khóc như những đứa trẻ, vì nghĩ rằng sẽ không còn chiến tranh, nghĩa là sẽ không còn chết chóc, không còn ly biệt, và những hệ lụy khổ đau nó mang lại. Từ nay sẽ không phải “hạt gạo cắn làm tư” (cho miền Bắc, cho miền Nam, cho Campuchia, và cho Lào). Con, em, chồng, cha của họ sẽ không phải “sinh Bắc tử Nam”. Nhưng họ không bao giờ biết rằng cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn diễn ra trong hơn 20 năm qua là do những nhà lãnh đạo hiếu chiến phát động, với mưu đồ nhuộm đỏ nốt Miền Nam theo lệnh của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản của ông ta tự nguyện làm tên lính xung kích cho Nga, cho Tàu. Tên Tổng Bí thư Cộng đảng Lê Duẫn từng huỵch toẹt tuyên bố: “Ta đánh đây là cho Liên Xô, cho Trung Quốc!” Nhưng họ Hồ và đảng cộng sản của ông ta đã dối trá khi tuyên truyền rằng đồng bào Miền Nam bị “Mỹ - Ngụy” kềm kẹp, do bất mãn, đã nổi dậy. Già Hồ nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Từ đó, Miền Bắc có nghĩa vụ phải giải phóng Miền Nam. Những lời nói dối trá đó cứ lặp đi lặp lại, kiểu như câu chuyện “Tăng Sâm giết người”, đã động viên được lòng yêu nước của toàn dân và toàn quân để tiến hành một cuộc chiến tranh vô nghĩa.

Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từng nói:

     “Đừng nghe những gì Cộng sản nói,

       Hãy nhìn những gì Cộng sản làm”.

     

Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyn nói:

“ Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại những lời nó đã nói láo với người khác.”

Từ sau năm 1945, trong dân gian vẫn truyền tụng câu: “Nói dối như VẸM”. Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối. Gian dối để sống còn. Ở mức độ cao, nói dối cấp nhà nước thì càng tệ hại hơn.

Trận chiến cuối cùng Xuân Lộc, Quân đoàn 4/CSBV dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã thảm bại nặng nề. Nhưng nhà cầm quyền CSBV vẫn tuyên truyền rằng chúng chiến thắng. Lịch sử được viết lại. Chúng tha hồ vẽ rắn thêm chân. Những tên nhà văn vô liêm sĩ, điển hình là Bảo Ninh, chỉ tưởng tượng mà viết lếu láo. Đúng là bọn văn nô. Chúng chỉ dám “viết theo lề phải”, kiểu “Con ngựa già của Chúa Trịnh” của nhà văn Phùng Cung trong Nhân Văn Giai Phẩm.

Tại Xuân Lộc tháng 4 năm 1975, QLVNCH đã thắng lớn quân CSBV, đã hạ sát tại trận 6.000 bộ đội “cụ Hồ”, bắt sống 50 tên “Sinh Bắc Tử Nam”, bắn cháy 37 xe tăng do Nga Sô chế tạo, tịch thu và phá hủy nhiều vũ khí đạn dược. Thất bại của quân CSBV là hiển nhiên. Nhưng các tên chỉ huy giặc tại mặt trận này vẫn được thăng cấp, tiến chức. Việc làm này của CSBV là để đánh lừa dư luận quốc tế và quốc nội. Nói dối riết trở thành thói quen. Chúng đã có ảo tưởng là thắng trận.

Một người dân Xuân Lộc sinh ra sau ngày 30.4.1975, lớn lên dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đi học Tiểu học, Trung học tại Xuân Lộc, và Đại học tại Sàigòn. Hiện giờ là Giám đốc một Công ty lớn ở Việt Nam, có dịp đi ra ngoại quốc, có dịp tiếp xúc với người Việt tỵ nạn, cho người viết biết:

-          Trong một bài đọc thêm của cuốn “Lịch sử lớp 10” (bây giờ là lớp 12), do nhà xuất bản Giải Phóng, xuất bản năm 1975, tác giả bài viết nêu đích danh tên người chỉ huy Núi Thị là một kẻ chống phá “Cách Mạng” điên cuồng, có nhiều nợ máu với nhân dân, ngoan cố không chịu đầu hàng. (Có thể tác giả bài viết là tên cán binh vào tầng số Tiểu đoàn tuyên truyền kêu gọi TĐ2/43 đầu hàng đêm 20.4 rạng ngày 21.4 tại Núi Thị).

 

-          Một cuốn phim tài liệu (CS gọi là tư liệu) của Xưởng Phim Giải Phóng chiếu cảnh bộ đội Đặc công cùng đơn vị thuộc Sư đoàn 341 tấn công Núi Thị, đã hạ sát hàng trăm tên “ngụy”, bắt sống nhiều binh lính và sĩ quan, trong đó có tên chỉ huy, phá hủy nhiều khẩu pháo 105ly, 155ly và nhiều đạn dược. Cảnh trong phim diễn tả phù hợp với lời viết dối trá của Thượng tướng Trần Văn Trà trong cuốn Hồi ký ‘Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm’:

“Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”

 

Sự thật khi Toán Đặc công hướng dẫn đơn vị thuộc Sư đoàn 341 tấn công Núi Thị lần thứ hai, sau khi TĐ1/52 bị thất thủ ở ngã ba Dầu Giây, tên ĐĐT mang quân hàm Thiếu úy, và nhiều bộ đội đặc công bị hạ sát khi mới mon men đến gần vị trí của ĐĐ1/2 tại tuyến phòng thủ dưới chân núi. Trung đoàn 270 mở nhiều đợt tấn công biển người, nhưng vẫn không chọc thủng được tuyến phòng thủ, đành phải rút lui khi trời sáng.

-          Hàng năm Chính quyền CSVN vẫn làm lễ Chiến thắng Xuân Lộc (nếu bọn cầm quyền CSVN còn chút lương tâm, nên đổi lại là Lễ Tưởng niệm Chiến bại). Báo chí viết lếu láo đã đành, vì mục đích tuyên truyền, viết theo lề phải! Nhưng chúng còn viết sử láo khoét đầu độc thế hệ trẻ. “Người dân Xuân Lộc” kể chuyện đã phải học bài sử láo khoét do chúng dựng chuyện. Đó là bài Lịch sử Địa phương dạy ở các trường tại Xuân Lộc:

 

“Chiến dịch Long Khánh mở màn lúc 5 giờ sáng ngày 6-4-1975 (sai: 5 giờ 40 ngày 9.4.1975). Sau loạt đạn pháo của ta bắn vào nội ô Thị xã, Chi khu Tân Phong, khống chế pháo địch tại Núi Thị (sai: Pháo Núi Thị vẫn hoạt động bình thường), đến đúng 10 giờ 30 phút cùng ngày, các đồng chí…thuộc mũi Xung kích sư đoàn 341 do đồng chí Đại tá Trần Văn Trấn chỉ huy đã cắm cờ trên Toà hành chánh, trung tâm đầu não tỉnh Long Khánh (sai: chúng chỉ cắm cờ tư dinh Tỉnh trưởng do vài Nghĩa Quân canh gác)…

Sau khi Tòa hành chánh bị thất thủ lúc 11 giờ ngày 9-1-1975 (sai: giả dụ có thất thủ thì phải là ngày 9.4.1975), Bộ chỉ huy Sư đoàn 18 do tên Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chỉ huy không chờ lệnh cấp trên bỏ chạy ra Chi khu Tân Phong….(không phải bỏ chạy mà di chuyển đến một vị trí dự phòng khác. Khi chuẩn bị chiến trường Xuân Lộc, Tướng Đảo đã cho Công binh Sư đoàn thiết lập Trung tâm Hành quân Sư đoàn tại nhiều địa điểm. Trong đó có một tại Núi Thị, và một tại Tân Phong).

·         Kết quả ta thu được trong chiến dịch:

-          Diệt được 2056 tên địch (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48 cộng lại lối 3.000, vậy là chúng đã loại được 2 trung đoàn).

-          Bắt sống 2783 tên (trong đó có tên Đại tá Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh) (sai: chỉ có Đại tá Phúc và vài cận vệ bị bắt trên đường lui binh).

-          Tiêu diệt gọn 6 Tiểu đoàn (nếu vậy thì 6 Tiểu đoàn của Trung đoàn 43 và 48 đều bị tiêu diệt).

-          Thu 48 xe vận tải các loại; 1499 súng các loại trong đó có 10 khẩu pháo 105ly, 4 khẩu 155ly và 1000 viên đạn pháo (sai: chỉ có 2 khẩu pháo 105ly tại Núi Thị do chính TĐT/TĐ2/43 ra lệnh phá hủy trước khi lui binh).

-          Phá hủy 16 xe GMC, 42 xe tăng thiết giáp, 3 máy bay và nhiều đạn dược (trừ 1 Chi đoàn M.113 của Đại úy Vũ Đình Lưu + 1 Chi đội chiến xa M.41 bị thiệt hại nặng nhưng chưa phải là “cháy túi”. Nếu 42 xe bị phá hủy thì Thiết đoàn 5(-) của Trung tá Trần Văn Nô đã sạch túi! Tại mặt trận Xuân Lộc không có máy bay nào bị thiệt hại.)

IX-DƯ LUẬN VỀ TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG XUÂN LỘC

Chiến trận Xuân Lộc bùng nổ với tương quan lực lượng của hai bên khá chênh lệch. Ban đầu quân bạn chỉ có 2 Trung đoàn là 43(-) và 48(-). Nhưng Tiểu đoàn 2/43 thì trấn giữ cao điểm Núi Thị, cách xa thị xã hơn 3.5 cây số về hướng Tây, sát QL1. Đó là một cứ điểm chiến đấu riêng rẽ, nằm bên ngoài tuyến phòng thủ của thị xã. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 48 đang tăng phái cho Tiểu Khu Bình Tuy của Đại tá Trần Bá Thành để bảo vệ tỉnh lỵ Hàm Tân. Đơn vị này chỉ được kéo trở về khi chiến cuộc đã bước sang ngày thứ hai. Như vậy bên trong vòng đai phòng thủ của thị xã chỉ có 2 Trung đoàn (-), Tiểu đoàn 82/BĐQ (đơn vị này chỉ còn lối 200 tay súng, sau cuộc triệt thoái từ Cao Nguyên Trung phần, và chỉ mới đến Xuân Lộc buổi chiều ngày hôm trước), Thiết đoàn 5/KB (- CĐ2/5/TK của Đại úy Vũ Đình Lưu đang hoạt động cùng Trung đoàn 52 trên tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây).

Quân CSBV tấn công vào thị xã gồm toàn bộ Sư 7 của Tướng Lê Nam Phong, và Trung đoàn 266. Qua ngày thứ hai, thêm Trung đoàn 270 (hai Trung đoàn này đều thuộc Sư 341 do tên Trần Văn Trấn chỉ huy, cấp bậc Đại tá). Các đơn vị bộ chiến này được tăng cường Tiểu đoàn xe tăng với các loại xe T-54 và PT-76 do Liên Xô chế tạo. Theo tác giả Phạm Kim Vinh “Cái Chết Của Nam Việt Nam”, một quan sát viên Tây phương theo dõi cuộc chiến đấu của sư đoàn 18, so sánh rằng: “trận đánh này giống như một cuộc chạy đua 30 cây số, trong đó, một người chỉ có một mình phải chạy hết quãng đường, trong khi người kia được tới bốn người thay nhau tiếp sức”. Với tỉ số chênh lệch như vậy, nhưng quân trú phòng đã đánh bật tất cả các mũi tiến công của cộng quân, giữ vững phòng tuyến. Mãi cho đến buổi trưa ngày 12.4, Quân đoàn mới cho trực thăng vận Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh vào tăng viện. Chiến thắng thần kỳ của Sư đoàn 18BB đã làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, đồng minh phải nể phục.

1/-  ĐỊCH

Tại Lộc Ninh, một quận lỵ nhỏ của tỉnh Bình Long, lọt vào tay quân CSBV hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, nằm sát biên giới Việt – Miên. Lộc Ninh được xem như là “Thủ đô” của VC, sau khi Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của VC, đã “hồ hởi’ tếu khi tuyên bố trong vòng mười ngày nữa, An Lộc sẽ là “Thủ đô của Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”, nhưng không thực hiện được. Lộc Ninh trở thành sào huyệt của bọn thảo khấu kể từ đó.

Sau khi mở cuộc tấn công Xuân Lộc với những thuận lợi ban đầu nhờ yếu tố bất ngờ, quân số và vũ khí dồi dào, vượt hẳn quân trú phòng, đã đạt được vài thắng lợi nhỏ, nhưng kể từ chiều ngày 10 trở đi, tình hìnhh trở nên căn thẳng. Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm kêu thiếu đạn, thiếu quân số. Vài vị trí chiếm được lần lượt bị phản công chiếm lại. Có vị trí thay đổi chủ vài lần: Đó khu vực bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc. Đó là chiến trận giữa hai Trung đoàn thuộc Sư 341 và Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Đổ Trung Chu, Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu tá Trần Cẩm Tường, và Chi đoàn 3/5 của Đại úy Lê Sơn.

Tại sào huyệt Lộc Ninh, bọn đầu lĩnh CSBV với các tên đầu sỏ gồm có Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị Cộng đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đảng, một thứ Thái Thượng Hoàng của Triều đình Đỏ Bắc Việt; Phạm Hùng, Chính ủy; Văn Tiến Dũng, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng cái gọi là “Quân đội Nhân dân VN’, Tổng chỉ huy quân xâm lược, rất lo lắng khi thấy quân CSBV bị chựng lại, hoặc bị đẩy lui. Trận đánh quá ác liệt, các đơn vị bị thương vong nặng. Báo cáo từ mặt trận cho biết vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căng thẳng (lúc này Xuân Lộc chỉ được phòng thủ do 2 Trung đoàn (-): TĐ2/48 đang tăng phái cho Tiểu khu Bình Tuy chưa kịp kéo về. CĐ52 cũng chưa xuất phái TĐ2/52 cho Xuân Lộc. Quân Dù thì mãi đến ngày 12 tháng Tư mới nhảy vào mặt trận). Mới đánh nhau chưa được 2 ngày, sao đã kêu thiếu đạn. Tại sao các Sư 6, 7, 341 kêu thiếu quân số? Tình hình rất gay go.

Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.

Văn Tiến Dũng: “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch…Trận chiến ác liệt và đẩm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư 6, 7, 341 của ta phải tiến công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung đoàn 43 địch quân. Các đơn vị pháo của ta đã xử dụng nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ…” (Đại Thắng Mùa Xuân).

Trần Văn Trà: “…vào cuối ngày 10 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản công điên cuồng…(Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm)

Hoàng Cầm ân hận vì cả Sư đoàn 341 gần như bị xóa sổ vì bom BLU-82, trách Bộ Tư lệnh Miền B-2 quá hối hả ra lệnh tấn công Xuân Lộc, trong lúc hắn xin chờ, nhưng Hànội bảo phải đánh ngay: “Trận đánh muộn kéo theo những khuyết điểm không đáng có. Việc chuẩn bị trận đánh quá gấp, xác định hướng chủ yếu từ đông –bắc đánh vào là không chính xác. Đúng đây là phía sau căn cứ sư đoàn 18, nhưng lại là khu vực phòng thủ rắn của địch, địa hình không thuận lợi, ta phải từ dưới cánh đồng thấp, ngược sườn đồi đánh lên, phải mở tám, chín hàng rào kẽm gai, vượt qua hệ thống đường ủi và các vị trị phòng thủ vòng ngoài mới có thể tiến vào trung tâm, tiến công chiến đoàn 52 và trung đoàn 5 thiết giáp phòng giữ. Khi phát hiện phía tây-nam, qua cổng chính tiến vào căn cứ địch có nhiều sơ hở, nhưng không còn lực lượng đảm nhiệm, vì Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ ở hướng chủ yếu, không thật sung sức lắm…Khi phát hiện hướng chủ yếu gặp khó khăn, địch tăng cường lực lượng phản kích quyết liệt đẩy ta ra khỏi thị xã, thế trận căng thẳng giằng co, lại không kịp thời chuyển hướng, thay đổi cách đánh. Việc phối hợp các hướng tiến công không thật thích hợp và ăn khớp…” (Hoàng Cầm, TL/QĐ4 – Chặng Đường Mười Nghìn Ngày).

Đại tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Quốc Phòng, trong một lần tại cuộc Hội thảo “Đại Thắng Mùa Xuân 1975”: ‘Chiến dịch Miền Đông là tiền đề của chiến dịch Hồ Chí Minh, và trong chiến dịch này, quân ta bị tổn thất, thương vong khá lớn”. Ít khi bọn CS thú nhận họ thất bại. Nhưng ở đây, với tư cách là Bộ trưởng Quốc phòng của chế độ, tại cuộc Hội thảo, hắn đã thú nhận, như vậy sự tổn thất không phải là nhỏ. Phạm Văn Trà nói tiếp: “Không nói đến chiến dịch miền Đông, sẽ không thấy hết cái giá phải trả cho ngày chiến thắng 30/4/1975 lớn đến thế nào. Hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để chọc thủng phòng tuyến Xuân Lộc…”  

Các đài phát thanh và truyền hình Cộng sản Việt Nam, cứ sắp đến ngày 30 tháng Tư là ra rả suốt ngày nói về “Đại Thắng Mùa Xuân”, nhưng những năm gần đây, bất đắc dĩ thú nhận rằng chúng đã bị thiệt hại nặng khi tiến qua Xuân Lộc. Lời thú nhận muộn màng của CSBV đã xác nhận chiến thắng Xuân Lộc tháng Tư năm 1975 của QLVNCH.

Ngay những người lương thiện, có mấy ai tự thú nhận một điều mình không muốn nói, huống hồ là cộng sản. Vì cộng sản là dối trá, là phường nói láo. Nói láo đã trở thành cố tật, là chính sách của cộng sản. Nhưng trận chiến Xuân Lộc, trận chiến cuối cùng có tính cách qui mô giữa quân và dân Xuân Lộc với bộ đội CSBV, đã nghiên hẳn về phía QLVNCH. Sự thiệt hại của quân xâm lăng CSBV là rất to lớn, chúng không thể che dấu được, đành miễn cưỡng phải nói ra. Nhưng chỉ nói ra một phần sự thật trong chiều hướng “cứu cánh biện minh phương tiện”.  

Thật ra phòng tuyến Xuân Lộc không hề bị chọc thủng, và con số cán binh bị giết không phải là 4 ngàn, mà là 6 ngàn, 8 ngàn, hay nhiều hơn thế nữa. Đúng ra hắn nên nói: “Hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để tiến chiếm một thị trấn đã bỏ ngỏ”. Suốt 12 ngày đêm của trận chiến, quân CSBV chỉ mon men bên ngoài vòng đai của thị xã, chỉ có vài toán đặc công xâm nhập được bên trong, nhưng đã nhanh chóng bị đẩy lui hoặc bị tiêu diệt. Con số 4.000 do Trà đưa ra là con số chính thức được CSBV công bố. Con số thực chắc chắn là cao hơn nhiều. Vậy 6 ngàn, 10 ngàn hay nhiều hơn thế nữa cũng là điều khả tín. Không chọc thủng được phòng tuyến Xuân Lộc để đi qua, quân CSBV phải đi vòng, hầu có thể cùng với 4 cánh quân kia tiến công Sài Gòn đúng ngày hẹn. Quân CSBV không chọc thủng được phòng tuyến Xuân Lộc vì đã đụng phải “Tuyến Thép Xuân Lộc” do những chiến binh dũng cảm của Sư đoàn 18BB, Lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/Biệt Động Quân “sát”, Lữ đoàn 1 Dù với mỹ danh “Thiên Thần Mũ Đỏ” thiện chiến chống trả.           

Trần Đức Thạch, Phân đội trưởng Trinh sát Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266/Sư 341 tường thuật: “Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15 (M.16). sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người…Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho tôi….Vị tướng nào có những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận.”  (Hồi ký ‘Hố Chôn Người Ám Ảnh’)

Trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh Quốc – Cộng, các chiến binh Sư đoàn 18 BB đã chứng tỏ là những người lính dũng cảm của một Quân lực Anh hùng. Họ đang chiến đấu trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, nhưng tình thần vẫn vững vàng, không hề bị giao động bởi thời cuộc. Vùng 1 và Vùng 2 Chiến thuật đã mất trắng vào tay bọn xâm lăng CSBV, người dân lánh cư tỵ nạn từ miền Trung chạy vào tràn ngập Xuân Lộc, nhưng các chiến binh Sư đoàn 18BB vẫn kiên trì giữ vững phòng tuyến. Bởi vì họ tin tưởng vào đơn vị, vào cấp chỉ huy của họ. Tất cả đều một lòng sát cánh bên nhau, không ai vì tình riêng rời bỏ đơn vị trong giờ phút nghiêm trọng. Và nhất là họ hoàn toàn đặt niềm tin vào vào tài điều binh khiển tướng của vị Tư lệnh, người nhạc trưởng tài ba của một dàn nhạc nổi tiếng vừa vượt trội trong những năm gần đây!

2/-  BẠN

Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/BTTM/ QLVNCH: “Cuộc tấn công vào Xuân Lộc của Quân đoàn 4/CSBV là một sự thất bại lớn nhất – và duy nhất – trong chiến dịch tấn công miền Nam vào những ngày cuối của cuộc chiến.”

Thiếu tướng Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt trận Xuân Lộc: “Chiến thắng Xuân Lộc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng QLVNCH không phải là không chịu đánh, mà rất chịu đánh…Họ đã chứng tỏ hùng hồn cho thế giới thấy là họ đã đánh một trận ‘tuyệt vời’ như thế nào tại Xuân Lộc”.

Cựu Đại sứ Bùi Diễm: “…Tại Xuân Lộc, chu vi phòng thủ xa Sàigòn, SĐ18BB của Miền Nam VN đã đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của địch quân…”

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết trong “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, Đại sứ Martin tâm sự; “Quân đội VNCH đã chiến đấu hết sức dũng cảm ở Xuân Lộc…”

VIETNAM, A Complete Photographic History viết: “The first North Vietnamese attack came on 9 April, and 5,000 men of ARVN 18th Division held their ground, repulsing 40,000 of Dung’s troops. They were led by a one-star general, Le Minh Dao, ‘a rarity who had worked his way from lieutenant by ability, not politics’.” (Cuộc tấn công đầu tiên của quân CSBV đã xảy ra vào ngày 9 tháng 4, và 5,000 của Sư đoàn 18BB của QLVNCH đã giữ vững phòng tuyến của họ, đẩy lui 40,000 quân của Dũng. Họ được vị Tướng một sao, Lê Minh Đảo, chỉ huy, ‘một nhân vật hiếm có, đã xây dựng sự nghiệp từ cấp bậc Trung úy, bằng khả năng chứ không bằng chính trị.’)

Tướng Homer Smith, Tùy viên Quốc phòng Hoa kỳ tại Sàigòn, gửi công điện báo cáo lên Tướng George S. Brown, Tham mưu trưởng Liên quân: “Chúng ta có một chiến thắng thành hình. Tại mặt trận Long Khánh, quân đội VNCH đã chứng tỏ rõ ràng sự cương quyết, ý chí và lòng can đảm để chiến đấu mặc dù cán cân lực lượng đã thiên hẳn về phía địch…”

Đại tá LeGro viết cho Quân sử Hoa Kỳ: “Thông điệp rõ ràng là những binh sĩ Việt Nam tại Long Khánh đã chiến đấu tới chết cho xứ sở của họ. Đây là một sự nối kết cố gắng giữa Bộ binh và Không quân giúp cho Sư đoàn 18, Lữ đoàn Dù, và Biệt Động Quân để cố thủ”.

Trưởng phòng thông tin của UPI tại Saigon, A. Dawson viết: “Lúc địch quân bắn 3,000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xã. Hỏa lực của hai bên đều rất dữ dội…Trận đánh kéo dài từ ngày này qua ngày nọ và cứ thế…Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận quyết liệt mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được. CSBV tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. Sư đoàn 18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10.4.75, Cộng quân lại đánh vào thị xã, và lại bị đẩy lui. Ngày 12.4.75 (Ngày này Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đĩnh bắt đầu được trực thăng vận vào Xuân Lộc), quân CSBV vẫn không tiến chiếm được chút nào. Hai Trung đoàn của Quân đội Nam Việt Nam (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48) không những đã giữ vững được vị trí mà còn phả công dữ dội hơn. Thêm 3,000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18BB vẫn đứng vững. Tướng Đảo ở lại bên cạnh các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu.”

Ký giả úc, D. Warner viết: “Với 3 Sư đoàn 6, 7, 341, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng, nhưng ông đã lầm. Sư đoàn 18BB chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của Miền Nam VN, trái lại có lần sư đoàn nấy còn được xem là một sư đoàn tệ nhất. Thế mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, Sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm; không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày. Tuy nhiên không chỉ có SĐ18BB đã chiến đấu anh dũng đến giờ phút cuối cùng, mà còn nhiều đơn vị khác của QLVNCH…”

Ký giả người Pháp, Pierre Darcourt viết: “Cộng quân có một đơn vị phòng không hùng mạnh trên xe kéo; các phi công Nam Việt Nam phải đối diện với nguy hiểm khi yểm trợ cho quân bạn dưới đất. tại Xuân Lộc quân bạn dưới đất đã sáp chiến với địch.  PB/CSBV đã tác xạ hơn 6,000 trái đạn đại bác liên tiếp trong hai ngày vào các vị trí của SĐ18BB; liên lạc với BCH của Tướng Đảo lúc đầu bị gián đoạn rồi sau đó được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhất định không lui mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ”.

Sử gia người Mỹ, George J. Veith viết trong “Fighting Is An Art”: “Yet, despite the public image of corruption and incompetence, the ARVN, as shown in the battle for Xuan Loc, was not an army of bumblers and cowards as it is so often portrayed….There is no need to call Le Minh Dao a hero. Some truths are self-evident.” (Mặc dù bị mang tiếng tham nhũng và thiếu khả năng, QLVNCH, như đã thấy trong trận chiến Xuân Lộc, không phải là đạo quân không làm được việc và hèn nhát nh báo chí Mỹ thường nói…Không cần gọi Tướng  Lê Minh Đảo là anh hùng. Có những sự thật tự nó đã là bằng chứng.)

Sử gia Harry G. Summers, Jr. viết trong Historical Atlas of the Vietnam War: “Although it was not known for its fighting prowess, the 18th Division proved in the end to be the best division in the Republic of VietnamArmed Forces.” (Dù sức chiến đấu it được biến đến, Sư đoàn 18 cuối cùng đã chứng tỏ là đơn vị xuất sắc nhất của QLVNCH.)

Tướng Phillip B. Davidson của Quân lực Hoa Kỳ đã có nhận xét chính xác về Trận chiến Xuân Lộc, về QLVNCH, và Người Chỉ huy Mặt trận đó: “The battle for Xuan Loc produced one of the epic battles of any of the Indochina wars, certainly the most heroic stand in Indochina War III…In this final epic stand ARVN demonstrated for the last time that, when properly led, it had the ‘right stuff.’(Trận Xuân Lộc đã tạo nên một trong những trận chiến mang tính anh hùng ca của bất kỳ trận chiến nào tại Đông Dương, chắc chắn đó là cuộc cố thủ hào hùng nhất trong chiến tranh Đông Dương…bản anh hùng ca chót của cuộc cố thủ cuối cùng của QLVNCH, một khi được chỉ huy thỏa đáng, thì sức ‘chiến đấu kiên cường’”.)

X- TỪ ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN XUÂN LỘC

1/. ĐIỆN BIÊN PHỦ

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tại lòng chảo Điện Biên Phủ, Quân đội Liên Hiệp Pháp với 16,200 quân do Tướng Christian de Castries chỉ huy, đã thảm bại trước 65 ngàn bộ đội Việt Minh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy, sau 55 ngày đêm chiến đấu cam go. Tỉ lệ là 1/4.

Thật sự Võ Nguyên Giáp không phải là người chỉ huy trận chiến thắng này. Sau khi “nướng” hết 23 ngàn bộ đội trên tổng số 33 ngàn, Giáp bắt đầu nãn chí, và chỉ muốn ngưng không tiếp tục tấn công nữa. Nhưng Vi Quốc Thanh, một trong các cố vấn Tàu cộng (các tên kia là Trần Canh, Lã Quý Ba) quyết định đánh tiếp với 25 ngàn quân, và cuối cùng đã thắng Pháp.

Tổn thất của Quân đội Liên Hiệp Pháp là 2,293 tử thuơng, 1,729 mất tích, 6,650 bị thương, và 11,721 bị bắt làm tù binh. Trong lúc đó, bộ đội Việt Minh có 8 ngàn tử thương, 792 mất tích và 15 ngàn bị thương.

Sự thất thủ của ĐBP đưa đến việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt – Pháp kéo dài 9 năm. Đất nước Việt Nam sau hơn 300 năm phân tranh giữa hai giòng họ Trịnh – Nguyễn, lấy sông Gianh làm giới tuyến, được thống nhất từ năm 1802 khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng Đế, lại bị chia đôi một lần nữa kể từ đây. Giòng sông Bến Hải là nổi đau của người dân hai miền. Từ Bắc vĩ tuyến 17 trở lên là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Từ Nam vĩ tuyến 17 trở xuống là Quốc Gia Việt Nam, sau này là Việt Nam Cộng Hòa. Khi lực lượng Liên Hiệp Pháp rút hết về bên này vĩ tuyến 17, Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, đã giành được độc lập thực sự từ tay người Pháp, và thể chế cộng hòa ra đời, với tên nước là Việt Nam Cộng hòa. Như vậy trên thực tế, đã hình thành hai nước riêng biệt. Việt Nam Cộng hòa được hơn 50 quốc gia trên thế giới thừa nhận. Trong lúc đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Miền Bắc cũng được 13 nước trong khối cộng sản ủng hộ. Mỗi nước theo một thể chế chính trị riêng biệt. Miền Bắc chịu sự chi phối của Cộng sản Đệ tam Quốc tế, hoàn toàn lệ thuộc Liên Xô và Trung Cộng. Miền Nam đứng trong chiến tuyến Thế giới Tự do, đứng đầu là Hoa kỳ. Hơn 1 triệu đồng bào Miền Bắc không thích chế độ cộng sản đã di cư vào Nam tìm Tự Do. ĐBP là trận chiến cuối cùng, đã chấm dứt sự can thiệp của nước Pháp vào đất nước Việt Nam, kéo dài gần 100 năm (1858-1954). Nếu nhà cầm quyền Miền Bắc là những con người yêu nước, lo cho dân giàu nước mạnh như những người lãnh đạo Miền Nam, rồi tiến hành thống nhất trong hòa bình, như Tây Đức và Đông Đức tiến hành sau này, thì đã không có cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, đã tiêu hao hằng triệu sinh linh của cả hai miền Nam và Bắc một cách vô nghĩa.

2/- XUÂN LỘC

Ngày 21 tháng 4 năm 1975, tại Xuân Lộc, một thị trấn nhỏ với khoảng 30 ngàn dân, cách Thủ đô Sàigòn hơn 60 cây số, sau 12 ngày đêm giao tranh ác liệt, trận chiến đã kết thúc. Đó là cuộc đối đầu qui mô, và là trận chiến cuối cùng của QLVNCH chống lại quân xâm lăng CSBV. Tỉ lệ quân tham chiến của hai bên là 1 (QLVNCH) và 5 (Quân CSBV). Với tỉ lệ 1/5, quân trú phòng tại trận chiến Xuân Lộc ít hơn quân trú phòng của Pháp tại ĐBP. Nhưng QLVNCH đã thắng quân CSBV, và đã thắng lớn. Trận chiến bi hùng kết thúc với hơn 6 ngàn bộ đội CSBV bị giết, 37 xe tăng T-54 và PT-76 bị tiêu hủy, nhiều tù binh bị bắt sống. Trong lúc đó sự thiệt hại của quân trú phòng, gồm Sư đoàn 18BB, Lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, Sư đoàn 3KQ/Biên Hòa không yểm chiến thuật, được ghi nhận là 30%. Không có con số chính xác, vì chỉ 9 ngày sau, SĐ18BB không còn, QLVNCH không còn, Chính phủ VNCH do Tổng thống 48 giờ Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng trước quân xâm lăng CSBV.

Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy, gồm các sư đoàn 6, 7, và 341, về sau được tăng cường thêm Trung đoàn 95B, Sư đoàn 325, nhưng đã thảm bại trước quân của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo (được Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng ngày 25/4/75). Tướng Đảo và quân sĩ của ông đã đại thắng tại mặt trận Xuân Lộc. Nhưng con én không làm nên mùa Xuân. Cuối cùng phải chịu thua trong cái thua chung của cả nước. Những người lính Sư đoàn 18BB không có cơ hội di tản, vì họ đã chiến đấu đến giờ thứ 25. Hầu hết phải phải chịu cảnh tù đày, chịu sự trả thù của phe thắng trận, bị đày đến các vùng đất cằn cỗi, đất cày lên sỏi đá, được gọi là “Kinh Tế Mới”. Vị chủ soái của họ, Thiếu tướng Lê Minh Đảo là 1 trong 4 vị tướng QLVNCH được thả cuối cùng, sau 17 năm bị đọa đày trong các trại lao tù Cộng sản.

Trong 50 ngày đêm mở cuộc tổng tấn công VNCH, quân CSBV xâm lăng đã tiến quân như thế chẻ tre tại Vùng 1 và Vùng 2 chiến thuật. Văn Tiến Dũng, tên Đại tướng CS chỉ huy đoàn quân xâm lược, viết trong Hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của hắn, đã khoác lác: “Cán bộ tham mưu đã không vẽ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội”.

Hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng nhằm mục đích hạ Tướng Giáp đang bị thất sủng, và tự đề cao, đánh bóng tên tuổi mình. Trường Chinh đã phê bình như sau: “Cuốn sách có khá nhiều điều viết không trung thực”.

Khi bộ đội của hắn tiến đến Xuân Lộc, ngưỡng cửa phía Đông của Thủ đô Sàigòn, đã đụng phải bức tường thép “Tuyến Thép Xuân Lộc” (theo cách gọi của Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB). “Cánh Cửa Thép” theo cách gọi của Lê Nam Phong, cựu Sư trưởng Sư 7. Cũng đúng thôi. Khi không còn tuyến thép, khi cánh cửa thép mở, Sàigòn mất, VNCH mất. Tướng Weyand đã nhận định rất đúng: “Xuân Lộc phải giữ, mất Xuân Lộc là mất Sàigòn”.

Mất Xuân Lộc, Sàigòn bị uy hiếp.

Trận chiến qui mô, cuộc đối đầu cuối cùng giữa quân xâm lăng CSBV và QLVNCH đã gây tổn thất năng nề cho 4 sư đoàn thuộc Quân đoàn 4/CSBV do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Sư đoàn 18BB, ĐPQ & NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Nhảy dù, Sư đoàn 3 Không quân, đã trở thành những đơn vị của QLVNCH cuối cùng và duy nhất có ý chí quyết chiến quyết thắng.

Chỉ vài ngày sau khi quân CSBV mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm Tư lệnh mặt trận Xuân Lộc, tuyên bố với phái đoàn báo chí phương Tây đến thăm chiến trường bằng Anh ngữ:

 “I will hold Long Khanh. I will knock them down here, even they bring two divisions or three divisions” (Tôi sẽ giữ vững Long Khánh. Tôi sẽ tiêu diệt họ ở đây, dù chúng đưa thêm hai hay ba sư đoàn để đánh chúng tôi).

Đây không phải là lời nói suông hay khoác lác. Lời tuyên bố của ông Tướng có cơ sở. Ông đã nhìn thấy tinh thần chiến đấu cao độ của quân sĩ dưới quyền. Họ là những chiến binh can trường, giàu kinh nghiệm. Trong những giờ phút đầu tiên của trận chiến, dù quân CSBV đạt được yếu tố bất ngờ, nhưng quân của chúng đã không chiếm được phần đất nào của thị xã. Phòng tuyến đã được giữ vững. Bây giờ ông lại được tăng cường thêm LĐ1Dù, là đơn vị ưu tú của QLVNCH. Cùng với sức mạnh tiềm tàng của lực lượng cơ hữu, nay được thêm sức là LĐ1Dù nhảy vào mặt trận ngày 12/4, Tướng Lê Minh Đảo đã có niềm tin vững chắc. QLVNCH tại Xuân Lộc đã làm đúng những gì Tướng Đảo nói.

Xuân Lộc đã làm chậm bước tiến quân của bộ đội CSBV, đã làm thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn của chúng. Theo Thiếu tá Phan Tấn Mỹ, Tiểu đoàn trưởng TĐ3/52: Hồi nửa đêm 11 tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía Đông Bắc đồi Móng Ngựa hạ 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301- Nay đề cử bốn đồng chí (lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư 1975 – Ngày chấm dứt niệm vụ: 30.4.1975”.

Ngày 7 tháng 4, tại sào huyệt Lộc Ninh, một cuộc họp quan trong được tổ chức, có Lê Đức Thọ, Đại diện của Bộ Chính Trị Cộng Đảng Bắc Việt, tham dự với các tên  đầu não trong BTL/Tiền Phương, Trung Ương Cục Miền Nam, Quân Ủy và Bộ Tư lệnh B2. Bọn chúng duyệt xét tình hình và quyết định lần chót kế hoạch tấn công Sàigòn. Trước hết phải tấn công các vị trí chiến lược trên QL4 và QL1, bằng cách đánh chia cắt, bao vây và cô lập địch. Nếu tình hình thuận lợi và quân địch bắt đầu tan rã; nếu lực lượng ta thành công trong việc cắt đứt QL4 và tiêu diệt được Sư đoàn 18, ta sẽ tấn công Sàigòn ngay.

Nhưng bọn này đã nằm mơ giữa ban ngày!

Hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” Trần Văn Trà viết: “Tại Sở chỉ huy của Miền, chúng tôi theo dõi từng diễn biến của trận đánh…Nhưng vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng…Rồi báo cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần lượt. số thương vong của sư đoàn 1 (tức 341) cao…Tình hình rất gay go. Các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ rất lo lắng…Tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng an hem nghiên cứu cách đánh…”

Chiều ngày 11.4, Trà lên đường. Sau khi nghe báo cáo, quan sát thực địa trên một số huớng, kiểm điểm thực lực của chúng, và thấy rõ tình hình của quân trú phòng, ngày 13.4 chúng quyết tâm thay đổi kế hoạch, hầu có thể tiến đánh Sài Gòn đúng kỳ hạn!

Tại QL4, chúng điều động Sư đoàn 5/CSBV đang hoạt động vùng biên giới Việt – Miên, băng đồng vượt sông xuống đánh quận Thủ Thừa và thị xã Long An, nhưng chúng đã gặp Lực lượng ĐPQ, Sư đoàn 7 và 22/QLVNCH đánh cho tan tành.

Tại QL1, chúng đưa cả Quân đoàn 4 của Thiếu tướng Hoàng Cầm đánh Xuân Lộc, chúng đã gặp phải Sư đoàn 18/QLVNCH đánh cho không còn manh giáp. Sự thảm bại của chúng tại Xuân Lộc đã làm đảo lộn kế hoạch tấn công Sàigòn.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết trong ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’: “Trong một mật điện gửi về Toà Bạch Ốc ngày 16 tháng 4, Đại sứ Martin viết là tình báo Hoa Kỳ cho biết: sẽ có tổng tấn công vào ngày 18 hay 19 tháng 4. Nhưng ông cũng cho rằng không nên lo ngại vì trận Xuân Lộc và Long An đã làm thay đổi kế hoạch này rồi.”

Sau khi Tổng thống 48 giờ không do dân bầu Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân CSBV, tổng số tổn thất tính từ ngày 1/11/1955 đến ngày 15/5/1975 của Miền Nam ước tính là 2,594,000 sinh mạng. QLVNCH thiệt hại khoảng 250,000 chết, lối 1,170,000 bị thương. Hoa Kỳ là 58,292. Đại Hàn là 4,900. Úc Đại Lợi là 520. Tân Tây Lan là 37.  Con số bị thương cao hơn nhiều. Thông thường cứ 1 chết, có 5 bị thương.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, trận chiến bằng vũ khí giữa Miền Nam Tự do và Miền Bắc Độc tài Cộng sản chấm dứt, nhưng liền sau đó, một cuộc chiến khác đang hình thành. Đó là cuộc chiến giữa Tự do Dân chủ và Độc tài Đảng trị, giữa Hạnh phúc Ấm no và Nghèo đói Lạc hậu, giữa Luân lý và Ngụy biện,…Vì thế dù đất nước đã hết chiến tranh, nhưng hàng triệu người đã bỏ nước ra đi. Nói như Quái kiệt Trần Văn Trạch: “Nếu cột đèn biết đi, thì cũng đã bỏ nước ra đi  vượt biên tìm Tự do”

Vượt biên tìm Tự Do, tìm cách chối bỏ chế độ CS cũng là cách chiến đấu chống CS. Cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến ngày chế độ CSVN bị tiêu diệt.

XI- SỰ TRẢ THÙ MAN RỢ

Bộ đội của cái gọi là “Quân Đội Nhân Dân” phải học thuộc nằm lòng câu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân…”. “Trung với Đảng” thì đúng. Chúng chỉ chiến đấu cho Đảng Cộng sản và Bác Hồ của chúng. Nhưng “hiếu với dân” thì không. Chính bọn chúng thú nhận “Quân đội và Lực lượng Công an là công cụ bạo lực của chế độ”. Cho nên nói “hiếu với dân” chỉ là một cách nói. Chúng thẳng tay đàn áp người dân vô tội.  Nhất là khi dân đó là người dân Miền Nam, mà chúng coi là “ngụy dân”, cũng là kẻ thù của CSBV.

Sự thảm bại của quân CSBV tại Xuân Lộc là quá lớn, lớn đến nổi chúng không thể dấu diếm được. Các tên chỉ huy trận đánh Xuân Lộc từ Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng đến Trần Văn Trà và Hoàng Cầm đều phải thú nhận. Mặc dầu ở trong phe thắng cuộc chiến, chúng có thể xóa bỏ những dấu vết bất lợi. Nhưng các tên chỉ huy cấp thấp như Tướng Lê Nam Phong, Sư trưởng Sư 7 vẫn khoác lác:

“Bộ đội của ta ngưng tấn công vào thị xã, chuyển ra tấn công trên QL1 để cô lập Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn vị nhỏ bám sát địch. Nhưng quân địch lầm tưởng rằng chúng đã đẩy lùi bộ đội của ta!”

Thua trận, quân CSBV đã trút nỗi hận thù lên đầu người dân lành vô tội. Hành động  man rợ và tàn bạo này do một đơn vị bộ đội cấp D tức Tiểu đoàn! Do Sư đoàn này bị thiệt hại quá nặng khi tiến công vào thị xã, và nhất là Chỉ huy sở của chúng bị hủy diệt do hai trái BLU-82 vào lúc quá nửa đêm ngày 16.4.75. Đó là Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 thuộc Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm. Sau đây là lời tự thú của Trần Đức Thạch, Cựu phân đội trưởng trinh sát Tiểu đoàn 8, qua bài viết ‘Hố Chôn Người Ám Ảnh’:

“…Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập…Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa…Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri…

-    Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây...

-    Địch đâu mà các ông bắn giữ thế?...

-    Anh ơi! đây là lệnh…

-    Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm.

 

… Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu đau đớn…Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau

…Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm trộn máu…”

Vụ thảm sát Tân Lập ngày 21 tháng Tư năm 1975 còn dã man tàn ác hơn vụ thảm sát Mỹ Lai ngày 16 tháng 3 năm 1968.

Do những hoạt động quấy phá của Tiểu đoàn 48 Việt Cộng lối 250 tên. Ngày 25.2.1968, Đại đội C của Đại úy Ernest L. Medina vướng phải mìn làm cho 6 chết và 12 bị thương. Ngày 14.3, đơn vị lại chịu nhiều tổn thất khác. Ngày hôm sau, Trung tá Frank A. Baker, Tiểu đoàn trưởng TĐ1/20 của Sư đoàn Amerial 23 Bộ binh, chỉ thị Đại úy Medina mở cuộc hành quân diệt địch. Khi tiến quân vào ấp Mỹ Lai-4, Trung úy Calley đã cho lệnh bắn giết bừa bãi một cách dã man. Con số nạn nhân lên đến 175 dân làng.

Tại Mỹ Lai, vụ thảm sát xảy ra là do một quân nhân ngoại quốc, một người lính viễn chinh tàn sát người dân của một đất nước xa lạ. Trái lại tại Tân Lập, vụ thảm sát xảy ra là do một cấp chỉ huy người Việt, của cái gọi là “Quân đội Nhân dân”, ra lệnh tàn sát người dân cùng chủng tộc với mình, là đồng bào của mình, để trả thù cho đơn vị của hắn bị thiệt hại nặng. Con số nạn nhân được ghi nhận ít nhất là 183 đến 300. Ngày hôm nay, vẫn còn một mồ chôn tập thể tại Tân Lập, mặc dù Cộng sản đã tìm cách xóa bỏ dấu vết.

Vụ thảm sát Tân Lập lại còn thua xa vụ thảm sát tại Huế hồi tết Mậu Thân. Sau 25 ngày chiếm đóng, quân CSBV do những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân chỉ điểm, đã hạ sát hơn 6 ngàn người dân Huế vô tội.

XII. SÀIGÒN THẤT THỦ

1. NGÀY NHỤC NHÃ

Ngày 8.4.1949, Hiệp ước Élysée công nhận Chính phủ Quốc gia Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp, một niềm mơ ước mà Hồ Chí Minh đã không đạt được, khi ông ta và phái đoàn Việt Minh qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau năm 1946, xin xỏ Pháp.

Ngày 13.4.1949, Nghị định Quốc phòng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành nghị định thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam, với tên gọi “Vệ binh Quốc gia”. Ngày 11.5.1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ binh Quốc Gia Việt Nam, với quân số 60,000 người, bao gồm các lực lượng địa phương: Bảo chính đoàn Bắc Việt (1948), Việt binh đoàn Trung Việt (1947), và Vệ binh Nam Việt (1946).

Năm 1955 khi Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa, Quân đội Quốc gia Việt Nam được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau cuộc đảo chính năm 1963, Quân đội Việt Nam Cộng hòa (Republic Of Vietnam Military Forces - RVNMF) lại chính thức mang tên mới là Quân lực Việt nam Cộng hòa (có tên gọi bằng Anh ngữ là “Republic Of Vietnam Armed Forces - RVNAF”.

QLVNCH thời kỳ phôi thai, chỉ có 60,000 người. Từ một quân đội phụ lực cho Quân đội Liên Hiệp Pháp trong cùng chiến tuyến chống cộng sản, đã trở thành lực lượng chính chống cộng sản, với quân số có lúc lên đến hơn một triệu tay súng phục vụ dưới cờ, được xếp lớn mạnh vào hàng thứ Tư trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Cộng. Quân lực đó có những cấp chỉ huy tài ba, được liệt vào hàng danh tướng của thế giới, đó là các Tướng Đổ Cao Trí, Ngô Quang Trưởng. Tướng Trí với Quân đoàn III của ông, năm 1970, 1971, suýt đã tiêu diệt toàn bộ quân CSBV trên chiến trường Kampuchia, đã đuổi Trung ương cục Cộng đảng Miền Nam đến tận Kratié. Nhưng ông đã bị tai nạn máy bay trực thăng khi trên đường bay đi thị sát mặt trận. CSBV đã gặp một dịp may hiếm có. Tướng Ngô Quang Trưởng thì được Tướng Mỹ H. Norman Schwarzkopf, cựu tư lệnh Vùng Vịnh trong chiến dịch “Bão Sa Mạc”, xem là bậc thầy.

QLVNCH từ dân mà ra, chiến đấu cho dân, và bảo vệ dân. Với châm ngôn: “Tổ quốc – Danh dự - Trách nhiệm”, người lính QLVNCH sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân trong tình thần Trách nhiệm cao độ. Trong hơn 20 năm ròng rã chiến đấu bảo vệ quê hương, họ đã chiến đấu anh dũng, quyết chiến quyết thắng, trước một kẻ thù hung bạo. Họ đã tạo nên những chiến tích lẫy lừng, khiến kẻ thù khiếp sợ,  đồng minh nễ phục, và đồng bào tin yêu. Họ đã đánh thắng trên khắp các mặt trận: Trị - Thiên quật khởi, Kontum kiêu hùng, Bình Long Anh dũng. Nhưng cuối cùng đành phải buông súng tan hàng. Chính Kissinger, vị Ngoại trưởng Mỹ vô lương tâm đã đi đêm với cộng sản, bây giờ phải thú nhận: “Sự thảm bại của Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”.

Chúng ta không thua trận, nhưng chúng ta đã thua cuộc chiến, do những người điều khiển cuộc chiến kém khả năng, và do sự phản bội của đồng minh.

“Người lính (QLVNCH) không chết mà chỉ mờ dần”, như hình ảnh người lính trong điệp khúc của một ballad nổi tiếng, được Tướng MacArthur nhắc đến trong bài diễn văn từ giả binh nghiệp, đọc trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày 19.4.1951: “Old Soldiers Never Die; They Just Fade Away”.

Người xưa có nói: “Không lấy thành bại để luận anh hùng”. QLVNCH đã phải buông súng và tan hàng ngày 30.4.1975, nhưng đó là một quân lực anh hùng. Chính kẻ thắng trong cuộc chiến năm 1975 là hèn nhác, đã “cúp đuôi” trước kẻ thù phưng Bắc.

QLVNCH thắng trận Xuân Lộc, nhưng VNCH thua cuộc chiến. Dư luận quần chúng cho rằng nếu có thêm vài Xuân Lộc nữa, hoặc nếu có đủ số ngòi nổ cho 27 trái bom BLU-82 mà Bộ TTM/QLVNCH đã có trong kho, đem ném lên đầu 5 cánh quân CSBV tiến vào Sài Gòn, thì sẽ không có ngày 30.4.75.

bui%20tinXe tăng CSBV tiến vào Dinh Độc LậpNgày 30 tháng 4 năm 1975, chiếc xe tăng T-54 do Nga Xô chế tạo, tiến vào, đã húc đổ cánh cửa chính của Dinh Độc Lập. Thật ra theo lệnh của Dương Văn Minh, cánh cửa đã được mở sẵn để chờ “người anh em phía bên kia” đến bàn giao. Nhưng khi chiếc T-54 đến cổng, xe ngừng lại, vài tên bộ đội nhảy xuống, khép vội hai cánh cửa đã mở sẵn. Tên phóng viên bộ đội mang máy chụp hình chuẩn bị. Và tình cờ có vài phóng viên ngoại quốc có mặt. Chiếc xe T-54 rồ máy, húc mạnh vào cánh cửa. Các phóng viên vội bấm máy. Những tấm hình chụp cảnh chiếc xe tăng quân CSBV húc cánh cửa Dinh Độc Lập đã trở thành những tấm hình lịch sử! Lúc đó là 11 giờ 10 phút sáng. Thật ra đây chỉ là một vở kịch được dàn dựng để ghi hình.

“Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T-54…xuất hiện từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp…

Sau này các tài liệu viết rằng chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.”

Hồi ký Lý Quý Chung, Tổng trưởng Bộ Thông Tin)

2/- BẦY QUẠ ĐEN RỈA XÁC CHẾT

Quân đoàn 4/CSBV tiến vào Sàigòn từ hướng Đông, được phân công cắm cờ Dinh Độc Lập, nhưng thực tế, Quân đoàn 2 đã vào cắm cờ trước.

“Tôi ở bộ phận đi đầu nên đã vào Dinh Độc Lập, lúc đó DVM nói rằng chúng tôi đã sẵn sàng để bàn giao chính quyền. Nhưng tôi và anh Bùi Tín (Báo QĐND) nói ngay: Chính quyền của ông còn gì nữa mà bàn giao, phải đầu hàng. DVM chấp nhận”.

(Phạm Xuân Thệ thuật lại năm 2005)

Lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30.4.1975, lá cờ giặc nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng của cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” do tên bộ đội CSBV kéo lên trên sân thượng.

“Một người bộ đội…nói với Tổng thống Minh: ‘Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ…’ Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: ‘Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng’”. (Hồi ký Lý Quý Chung)

Theo Trần Văn Trà, tổ Đặc công do tên Phạm Duy Đô chỉ huy (thuộc Trung đoàn 116 Đặc công), theo chiếc tăng T-54 để chỉ đường. Khi xe vào sân, chúng liền nhảy xuống tiến vào phòng họp bên cánh phải của Dinh, nơi toàn bộ Nội Các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ngồi quanh chiếc bàn bầu dục. Tên Đô chỉa súng AK hô:

“Các ông đã bị bao vây. Ai có súng bỏ xuống. Đầu hàng.”

Tổng thống Dương Văn Minh ngồi ở đầu bàn phía trong, vội đứng dậy, nói:

“Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao”

Tên Tùng, Chính ủy ra lệnh:

“Các ông không còn gì để mà bàn giao. Chỉ có đầu hàng vô điều kiện. Mời các ông ra tuyên bố ở Đài Phát Thanh: ‘Xin đầu hàng vô điều kiện’”.

Theo Hồi ức của Thượng tướng Nguyễn Hữu An, lúc đó là Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 2: “Cùng lúc đó Đại đội trưởng Bùi Quang Thận cán bộ xe 843 cùng Tiểu đội phó Trần Đức Tình trèo lên tòa nhà lớn treo lá cờ mặt trận giải phóng. Lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh tung bay trên nóc dinh độc lập lúc 11 giờ 30 phút…

Tôi…cùng với anh Công Trạng lên trên gác. Một cán bộ bảo vệ dẫn chúng tôi tới nơi tập trung nội các ngụy…không thấy Dương Văn Minh, tôi hỏi anh cán bộ bảo vệ, anh cho biết: Phạm Xuân Thệ…và Bùi Văn Tùng…đã dẫn Minh đến đài phát thanh…Công Trạng sợ sổng mất Dương Văn Minh, anh nổi nóng hỏi: ‘Ai giao cho các cậu làm việc đó?’”                                                                    

Nhưng theo Búi Tín: “Tối mịt tướng An tư lệnh quân đoàn mới vào…Tướng đầu tiên vào là tướng Nam Long, phái viên của Bộ Tổng tham mưu đến lúc chừng 4 giờ chiều…” (Bùi Tín trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 29.4.2005)

Bùi Tín được hai Trung tá Hân và Tùng hai lần nói ông ra nhận sự đầu hàng, vì ông mang hàm Đại tá, thuộc hàng cán bộ cao cấp có mặt tại Dinh lúc đó. Tổng thống Dương Văn Minh đứng chấp tay phía trước, và tiến lên một bước, bên cạnh là Phó TT Nguyễn Văn Huyền, nói:

“Chúng tôi đợi quý ông từ sáng, đặng chuyển giao chính quyền”.

Bùi Tín cướp lời:

“Các ông còn gì nữa mà bàn giao. Người ta không thể chuyển cái gì không có trong tay”.

Thật ra Bùi Tín đã nói sai. Chính quyền VNCH lúc đó còn có cả vùng đồng bằng sông Cữu Long trù phú, với vựa lúa nuôi sống người dân cả nước. Quân đoàn IV Quân khu 4 dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, một danh tướng của QLVNCH vẫn còn nguyên vẹn. Các Sư đoàn 7, 9, 21, các Tiểu đoàn BĐQ, Lực lượng ĐPQ và NQ Vùng 4, Sư đoàn 4 Không quân và Quân chủng Hải quân vẫn chưa sức mẻ.

Sau khi có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, vì tuân lệnh, những người lính Quân đoàn IV Quân khu 4 phải buông súng. Nhưng một số đơn vị vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến ngày 2 tháng 5 thì tự động tan hàng do bị xao động bởi lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh.

Nếu Trung tướng Vĩnh Lộc, vị Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cuối cùng, làm tròn trách nhiệm được giao phó, không “lủi trốn như chuột giống như Tổng Thống Thiệu” như Nhật lệnh ông ban cho quân sĩ ngay sau khi nhận lãnh trách nhiệm, không tìm cách bỏ nhiệm sở để tìm tàu di tản vào lúc 6 giờ sáng ngày 30.4, mà lo kế hoạch đưa Chính phủ về Miền Tây, với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, cùng lo giữ nước và cứu nước.

Nếu cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (tên tướng bị VC móc nối) không được Dương Văn Minh gọi trở lại quân ngũ, cho làm Phụ tá TTMT, để rồi lợi dụng lúc “boss” của mình rời bỏ nhiệm sở, nhân danh TTMT, đã ban lệnh cho quân đội với hậu ý “rước giặc vào nhà”.

Nếu Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn IV Nguyễn Khoa Nam bất tuân lệnh của Dương Văn Minh, vẫn tiếp tục chiến đấu, thì chuyện gì sẽ xảy ra?

Ngay trong giờ phút nghiêm trọng đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo tìm cách gặp riêng Bùi Tín, mật báo việc anh ta giữ lại 16 tấn vàng, không để cho ông Thiệu mang đi. Nhưng CSVN tuyên truyền rằng: “Thiệu bỏ chạy, mang theo 16 tấn vàng”. Do tuyên truyền đầu độc của CSVN, người Việt Quốc gia vẫn có lắm kẻ tin. Hai ngày sau, chuyến máy bay IL. 18 từ Hànội vào nhận. Bộ chính trị Cộng đảng gồm 13 tên, đứng đầu là Lê Duẩn đã chia chát nhau 16 tấn vàng này! Hay là 16 tấn vàng này chúng đã đem trả nợ Tàu cộng.

Tâm tư người dân Sàigòn tháng Tư năm 1975 cũng giống như tâm tư người dân Hànội tháng 7 năm 1954. Ai ai cũng hoang mang, sợ hãi, sống trong phập phồng lo âu. Rồi những ngày sau đó, cảnh đấu tố đã nhanh chóng được du nhập vào từ Miền Bắc. Vợ chồng tố cáo nhau. Con cái tố cáo cha mẹ, học trò tố thầy giáo. Tình nhân loại, nghĩa đồng bào không còn tồn tại trong chế độ Cộng sản. Cuộc sống không có tương lai. Tương lai thật mịt mờ. Nhà nhà phá bỏ bàn thờ, thay vào đó là bức hình tên đại gian đại ác Hồ Chí Minh. Lá cờ của Mặt trận côn đồ phá hoại Miền Nam, nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng được treo cùng khắp. Nhưng không lâu sau đó, đã bị thay thế bằng lá cờ máu. Sàigòn thất thủ, khắp nơi  tràn ngập cờ máu:

“Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà,

chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ”.

(Trần Dần - Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm)

       

“Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam” và “Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” đã không kèn không trống tự giải thể. Trong buổi lễ long trọng tổ chức tại Sài Gòn để mừng ngày “Giải phóng”, Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp, khi thấy các đoàn quân diễn binh chỉ toàn là bộ đội Bắc Việt, đã hỏi Văn Tiến Dũng ngồi kế bên: “Thế các sư đoàn quân giải phóng đâu cả?” Dũng chỉ mĩm cười mà không trả lời.

3/- HẬU QUẢ CỦA SỰ PHẢN BỘI

Hoa Kỳ tham chiến để giúp người dân Miền Nam tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CSBV. Sau khi bật đèn xanh cho nhóm tướng tá bất mãn (Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Đổ Mậu), nhóm tướng tá tham vọng (Tôn Thất Đính), và nhóm tướng tá cơ hội (Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ) làm cuộc chính biến, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người chủ trương không chấp nhận quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến (vì như thế sẽ làm mất chính nghĩa của cuộc chiến tự vệ của Quân và Dân VNCH), người Mỹ đã nhảy vào Việt Nam (1965) giành lấy quyền chủ động điều khiển cuộc chiến, với hy vọng sẽ đập tan VC trong vài năm. Nhưng cuộc chiến cứ kéo dài. Ta không thể dùng cái búa tạ để đập con ruồi. Thế rồi người Mỹ mệt mỏi, và tìm cách rút ra trong danh dự. Khi người Mỹ hiện diện ở Việt Nam với hơn nửa triệu quân, được trang bị vũ khí hiện đại với quân viện trên dưới 2 tỷ dollars mỗi năm, đã không đập tan được bọn dép râu nón cối khôn ngoan luồn lách. Thời gian dài ra, người Mỹ càng mệt mỏi. Cuối cùng người Mỹ đành phản bội người đồng minh thân tín, đã bỏ cuộc, tìm cách rút ra trong danh dự, không những thế, còn cắt mọi viện trợ cần thiết, khi quân CSBV ồ ạt tấn công VNCH đầu năm 1975, Tổng Thống Thiệu xin viện trợ khẩn cấp 300 triệu dollars, Quốc hội Mỹ cũng không thuận, đã đưa đến sự sụp đổ của VNCH ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thống tướng Westmoreland, một thời là Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam đã chính thức nói lên lời xin lỗi:

 “Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với QLVNCH. Thay mặt cho Quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân lục Miền Nam Việt Nam, vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn” (On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).

Sau nhiều năm im lặng, cuối cùng Kissinger, tên Ngoại trưởng Hoa Kỳ bất lương đã bán đứng người bạn đồng minh của mình là VNCH cho Tàu cộng và CSBV, đã phải thú nhận: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”.     

Nhà văn Dương Thu Hương, từng là một “chiến sĩ gái” vượt Trường Sơn trong đoàn quân xâm lăng Miền Nam, buổi trưa ngày 30.4 tại bùng binh chợ Bến Thành, ngồi bệt bên vệ đường, đã khóc khi nhìn thấy cảnh phồn vinh của Miền Nam, khác với những gì mà y thị đã bị lừa dối rằng Miền Nam bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, đồng bào ruột thịt bị thiếu ăn, thiếu mặc, cần phải được giải phóng. Ý thức được hành động sai lầm của mình, và thế hệ thanh niên Miền Bắc bị “Bác và Đảng” lừa dối trong bao nhiêu năm, ngưới “chiến sĩ gái trong đoàn quân giải phóng” đã thốt lên: “Nền văn minh đã thua chế độ man rợ”.

Ý đồ xâm lăng của CSBV đã bắt đầu tiến hành từ Tháng 5 năm 1959, khi Cộng đảng BV cho Tướng Trần Độ thành lập đoàn công tác, là Đoàn 559 (5 là tháng 5 và 59 là năm 1959). Đoàn công tác của Trần Độ rời Hànội từ tháng 5, men theo con đường mòn Trường sơn đã có sẵn từ thời kháng chiến chống Pháp. Đoàn khảo sát địa thế,  mở rộng con đường mòn, đặt tên Hồ Chí Minh, để đưa người và vận chuyển chiến cụ vào Nam (cùng với chiến cụ được chúng cất dấu trước khi tập kết ra Bắc tháng 7 năm 1954) chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Ngay sau khi vừa ký Hiệp định Đình chiến Genève, chúng đã có kế hoạch thôn tính Miền Nam. Tháng 12 năm 1960, Cộng đảng BV cho dựng lên một công cụ xâm lăng tại Miền Nam là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam VN”, để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng dựng lên nhân vật Nguyễn Hữu Thọ, một Luật sư, một trí thức Miền Nam, nhưng rất ngu muội! hay thông minh nhưng có nhiều tham vọng! Rất nhiều người không hiểu rõ căn nguyên của cuộc chiến. Thậm chí một nhà sư được sự ưu đãi của Chính phủ VNCH, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, thường gọi là Thiền sư Nhất Hạnh, trong một Hội nghị Quốc tế tại Tokyo năm 1960, khi được hỏi làm sao để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, để có hòa bình, nhà sư đã trả lời rằng muốn có hòa bình ở VN, quân đội VNCH phải giải giới, chính phủ VNCH phải giải thể! Nhà sư này đã không phân biệt được đâu là nguyên nhân của cuộc chiến. Có thể do đầu óc ngu muội về chính trị, hay do đầu óc của nhà sư lệch về phía tả. Sư Nhất Hạnh tu học tại chùa Bảo Quốc, Huế, được chính phủ VNCH cấp học bổng cho đi du học ngoại quốc. Nhưng nhà Sư đã phản bội VNCH và luôn tìm cách đánh phá VNCH bằng thơ văn, hay những lời tuyên bố lếu láo:

“Làng tôi hôm qua vì có sáu người cộng sản về,

Nên đã bị dội bom hoàn toàn tan nát.

Cả làng tôi hoàn toàn chết sạch,

Lũy tre ngơ ngác,

Miếu thờ ngã gục.”

 

Người dân Hoa Kỳ thì bị các vị dân cử của họ trong Quốc Hội phản bội. Chính thành phần đa số của Quốc hội đã phản bội một Quốc gia đồng minh nhỏ bé là VNCH, đã phản bội sự hy sinh cao cả của gần 60 ngàn quân nhân Quân lực Hoa Kỳ để bảo vệ lý tưởng Tự Do – Dân Chủ của người dân Miền Nam Việt Nam. Con người dù có trình độ dân trí cao, sống trong chế độ Tự do – Dân chủ như Hoa Kỳ, cũng dễ trở thành “bầy cừu của Panurge”, khi bị khích động bởi giới truyền thông vô lương tâm đầu độc dư luận, và bọn phản chiến hèn nhác như John Kerry khuấy động. Phong trào đòi Hòa bình của “bầy cừu Panurge” đã áp lực Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật cấm Tổng Thống chi tiền viện trợ Quân sự cho Chính phủ VNCH. Trong lúc đó cả khối CS Đệ tam Quốc tế, đứng đầu là Liên bang Xô viết và Trung cộng đã dồn tất cả mọi nổ lực giúp CSBV trong âm mưu thôn tính Miền Nam Việt Nam. Với lời lẽ dối trá, sau khi vừa chiếm được Miền Nam VN, Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Cộng đảng VN tuyên bố: “Chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Nhưng thực tế, CSVN đã biến nhà trường thành nhà tù! Chúng lùa hàng trăm ngàn Quân – Dân – Cán – Chính VNCH vào các Nhà tù với những từ ngữ mị dân là “Tập trung Học tập Cải tạo”. Cộng đảng VN đã cai trị người dân bằng bạo lực và khủng bố. Sự sợ hãi tràn lan. Người dân trở nên dối trá, không còn ai tin ai, kể cả vợ với chồng, con cái với cha mẹ, thầy giáo với học trò.

Hậu quả của sự phản bội là người dân Miền Nam đã sống những ngày nhục nhã nhất sau khi Sàigòn thất thủ. Người dân Miền Nam muốn sống một cuộc sống xứng đáng là cuộc sống của một con người thì phải bỏ nước ra đi, phải vượt biên, vượt biển. Theo Giáo sư R. J. Rummel, đã có 400 ngàn người chết ngoài biển hay trong rừng sâu núi thẳm trên đường tìm Tự do. Giáo sư Lewis Sorley thì cho rằng có chừng 250 ngàn quân nhân và viên chức VNCH đã chết trong các “Trại Cải tạo”, khoảng 1 triệu rưởi người dân Miền Nam bị đầy đi các vùng “Kinh Tế Mới”, và đã có lối 48 ngàn đã chết tại nơi rừng thiêng nước độc. (Theo tài liệu thuyết trình của Robert F. Turner tại cuộc Hội Luận Kỷ niệm 35 năm Lưu vong tại Westminster, Cali. ngày 28.4.2010). 

XIII- KẾT

Ngày 11 tháng Ba năm 1945,  Quân phiệt Nhật đảo chính thực dân Pháp, lợi dụng tình thế,  Hoàng đế Bảo Đại cho thành lập Chính phủ Đế quốc Việt Nam ngày 17 tháng Tư năm 1945, mời Học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Hoàng đế Bảo Đại ban chiếu chỉ, tuyên bố Việt Nam Độc lập:

“Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, Chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: kể từ hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc lập.”

Tiếc rằng Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại 126 ngày. Chính phủ không có quân đội, lại thiếu hậu thuẫn của quần chúng, nên đã bị lực lượng Việt Minh cướp một cách dễ dàng. Sau khi cướp được chính quyền, để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia, Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ với thực dân Pháp ngày 6 March 1946 (về sau người dân nói lái lại thành “Mác-xít”. Hiệp định cho phép 15,000 lính Pháp trở lại Miền Bắc. Hiệp định tạo cơ hội tốt, thuận lợi, và danh chính ngôn thuận cho quân Pháp trở lại Đông Dương, và tiếp tục đặt nền đô hộ trên đất nước Việt Nam lần nữa. Đây là hành động “Cõng rắn cắn gà nhà; rước voi dày mã tổ”. Máu xương người dân Việt lại đổ ra để giành độc lập, mà trước đó một năm, Hoàng đế Bảo Đại đã giành lại được mà không tốn một giọt máu!

Sau năm 1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng không tốn một giọt máu nào, đã giành được độc lập hoàn toàn từ tay nguời Pháp, do Hồ Chí Minh long trọng rước vào qua Hiệp định “Xít Mác”. Tên Tướng Pháp cùng ký vào Hiệp định, biết rằng người dân Việt đã chán ngấy thực dân Pháp, nhưng buộc Hồ Chí Minh phải tổ chức đón tiếp long trọng. HCM và lũ Việt Minh phao tin rằng ngày 19.5 là ngày sinh của “Chủ tịch HCM”, và yêu cầu nhân dân kết hoa treo đèn ăn mừng. Hôm đó là ngày quân Pháp đổ bộ Hải Phòng và tiến lên Hà Nội!

“Con én không làm nên mùa Xuân”

 

Trận Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng Liên Hiệp Pháp đã thua trận chiến khi đối đầu với lực lượng Việt Minh, có quân Tàu cộng, và cố vấn Tàu cộng, là các Tướng Lã Quí Ba, Trần Canh, giúp sức. Pháp thua trận chiến ĐBP, thua luôn cả cuộc chiến chống cộng sản. Cuối cùng phải xuống tàu về nước, chấm dứt sự hiện diện của thực dân Pháp gần 100 năm, kể từ khi Leheur de Ville-sur-Arc đem chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng tháng 8 năm 1956, bắn phá các đồn lũy của quân triều đình ta. Thua trận chiến ĐBP, Pháp phải ký Hiệp định Đình chiến Genève, buộc phải lui quân về phía Nam vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Nhưng rồi cũng bị buộc phải trở về cố quôc, vì người Quốc gia Miền Nam không chấp nhận thực dân Pháp (1954). Hiệp định Genève 1954 chia đôi lãnh thổ: Miền Bắc đặt dưới ách bạo tàn của chế độ cộng sản, do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động của Y (thực chất là đảng Cộng sản trá hình, tay sai của Đệ tam Quốc tế Cộng sản) cai trị. Bọn Hồ Chí Minh và đám thuộc hạ nguyện làm tên lính xung kích của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, chỉ lo mưu toan thôn tính Miền Nam. Miền Nam theo chế độ Cộng hòa, do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ lo an sinh xã hội, thăng tiến cần lao, mưu cầu hạnh phúc ấm no cho toàn dân, hầu đưa đất nước sánh vai ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới. Sau ĐBP năm 1954, Quốc gia Việt Nam bị qua phân lãnh thổ.

 

Trận Xuân Lộc năm 1975, Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đánh bại quân Cộng sản Bắc Việt. Đó là trận đối đầu ác liệt mà bọn cầm đầu Bắc Bộ Phủ không hề tiên liệu. Do những chiến thắng mà chúng gặt hái được từ những mặt trận vùng hỏa tuyến và cao nguyên Trung phần, tính khinh địch và kiêu ngạo dễ dàng phát sinh. Văn Tiến Dũng, tên tướng chỉ huy đoàn quân xâm lăng từng huênh hoang tuyên bố: “Cán bộ tham mưu không vẻ kịp bản đồ cho tiến độ tiến công của bộ đội.” Vã lại sau khi nuốt trọn Vùng 1 và Vùng 2, vào đến Vùng 3, đơn vị đối đầu là Sư đoàn 18BB, một đơn vị bị mang tiếng là yếu kém trong QLVNCH. Chúng đã từng chạm trán với các đơn vị tinh nhuệ của QLVNCH, nhưng đã dễ dàng vượt qua. Bọn đầu lĩnh Hà Nội nghĩ rằng chúng sẽ dễ dàng tiêu diệt Sư đoàn 18. Nhưng không, chúng đã lầm, vì đụng phải cánh cửa thép, “Tuyến Thép Xuân Lộc”, mà người chỉ huy giữ cửa, giữ phòng tuyến là một tướng lãnh trẻ tài ba, năng động, và đầy mưu lược, nên sự thất bại của chúng là điều đương nhiên.

 

Nhưng “con én không làm nên mùa Xuân”. Xuân Lộc đã không cứu vãn được VNCH đang yếu thế. Sau Xuân Lộc, Sàigòn mất tên, VNCH không còn tìm thấy trên bản đồ thế giới. Hằng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm Tự Do. Lối một triệu Quân Cán Chính VNCH bị tập trung vào các trại tù cải tạo (thực chất là các trại tù khổ sai). Và một con số không nhỏ người dân Miền Nam bị lùa đi “Vùng Kinh Tế Mới”. Hàng trăm ngàn người bị chết trong rừng sâu, vùi thây dưới lòng biển cả, trên đường vượt biên vượt biển. Và một con số không nhỏ các cựu Quân Cán Chính bị hành hạ đến chết tức tưởi trong các trại tù khổ sai. Một mùa Đông lạnh giá bao phủ khắp trời Nam. Đã ba mươi lăm năm qua, mùa Xuân vẫn chưa trở lại./.

11

Michigan, Mùa Bảo Tuyết 2010

Bảo Định Nguyễn Hữu Chế

Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/43, SĐ18BB

 

 


PHỤ LỤC:

1.    BUỔI CHIỀU CUỐI CÙNG

Bây giờ là 6 giờ chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975. Đó là buổi chiều cuối cùng tôi còn là lính. Tôi được gọi lên gặp Hằng Minh (danh hiệu truyền tin của Tướng Tư lệnh Sư đoàn).

Trước buổi trưa, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Trảng Bom (Biên Hòa). Lúc này Long Bình đã là địa đầu chiến tuyến. Trước ngày 16.4, quân ta còn đánh nhau với quân CSBV tại Phan Rang. Thời gian càng dài ra thì chiến tuyến càng thu ngắn lại. Sau đó là Bình Thuận, Bình Tuy, rồi Xuân Lộc. Quân và dân Xuân Lộc đã anh dũng chiến đấu suốt 12 ngày đêm, với quân số tương đương một sư đoàn, đã chống đở thắng lợi 4 sư đoàn quân CSBV, đã tạo nên chiến tích thần kỳ. Nhưng cuối cùng Xuân Lộc cũng bị bỏ ngỏ vào đêm 20 rạng ngày 21.4. Lực lượng trấn thủ được lệnh lui binh về Biên Hòa lập phòng tuyến mới để bảo vệ Biên Hòa và Thủ đô Sài Gòn.

Vào lúc quá trưa, cộng quân bắt đầu pháo kích kho đạn Long Bình. Những tiếng nổ long trời lở đất, khói đen bốc lên ngùn ngụt, cao tận mây xanh. Từ buổi sáng, phòng tuyến Trảng Bom đã vỡ. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43BB bị địch quân đông gấp bội, với chiến xa trợ chiến, đã tràn ngập vị trí. Vị Tiểu đoàn trưởng được ghi nhận mất tích. Mất Trảng Bom, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Long Bình.

Tôi dời Bộ chỉ huy Tiểu đoàn vào bên trong căn cứ, đặt tạm tại văn phòng của Ban chỉ huy Đại đội Quân Cảnh Sư đoàn.

images.jpgKhi Tiểu đoàn xuống núi (Núi Thị) để hành quân triệt thoái khỏi Xuân Lộc, quân số khá đầy đủ, với hơn 500 tay súng. Nhưng vì là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi mặt trận, một mình đơn độc, không có không quân và pháo binh yểm trợ, đạn dược thiếu hụt, lại bị Sư đoàn 341/CSBV truy đuổi liên tục trong khu rừng rậm, từ lâu vốn là căn cứ địa của VC,  nên đã bị hao hụt rất nhiều. Vì lẽ đó, lần đầu tiên đơn vị được giao một nhiệm vụ khá nhẹ nhàng là bảo vệ Bộ Tư lệnh Sư đoàn, trong lúc các tiểu đoàn bạn phải lên tuyến đầu chống chọi với cộng quân tại chiến tuyến Trảng Bom.

Lối 9 giờ sáng, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật bay trực thăng đến BTL/SĐ để gặp Tư lệnh các đại đơn vị: SĐ5, SĐ18, SĐ25, và Lữ đoàn 3 Xung kích. Nhưng hiện diện chỉ có hai tướng là Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB và Trần Quang Khôi, TL/LĐ3XK. Lúc này BTL/QĐ đã di chuyển về Sài Gòn. Sau cuộc họp mặt chớp nhoáng để ban chỉ thị giữ Biên Hòa, Tướng Toàn vội vả bay đi mà không bao giờ trở lại. Có lẽ đây là những chỉ thị cuối cùng trong tư cách là Tướng Tư lệnh Quân đoàn. Theo “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954 – 1975” của các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, thì vào một ngày của tháng 3.1975, Quân đoàn III được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, nghiên cứu bãi đổ bộ tại Phước Tuy cho hai Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ khi hữu sự. Khi Tướng  Dương Văn Minh nhậm chức Tổng Thống chiều ngày 28.4.1975, bận lo tổ chức nội các, lo hòa giải và hòa hợp với cộng sản, Tướng Toàn tìm mọi cách liên lạc với giới chức có thẩm quyền về việc liệu có việc đổ bộ của hai Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ? Nhưng không gặp được ai. Sau khi họp mặt và ban lệnh cho hai Tướng Đảo và Khôi tại Long Bình là phải giữ Biên Hòa , Tướng Toàn bay về Gò Vấp. Sau đó bay ra Soái hạm Blue Ridge của Đệ Thất Hạm đội Mỹ, để yêu cầu xác nhận. Nhưng đó chỉ là “quả lừa.”

imagesCAC4JG9M.jpgCũng buổi sáng ngày 29.4, lối 8 giờ, trong lúc các đơn vị QLVNCH trên khắp các mặt trận, Sư đoàn 5 tại Lai Khê, Sư đoàn 25 tại Củ Chi, Sư đoàn 18 tại Biên Hòa, Sư đoàn 22 tại Bến Lức, và tại Vùng 4, quân sĩ của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam với các Sư đoàn 7, 9 và 21, đang anh dũng chiến đấu với quân thù, thì cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng riêng Huey của mình. Trước khi bay đi, Tướng Kỳ ghé lại Bộ Tổng Tham Mưu, tình cờ gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng, và rủ rê cùng đi. Có nguồn tin cho rằng Tướng Kỳ mời Tướng Trưởng bay về Miền Tây gặp Tướng Nam để bàn chuyện cứu nước. Nhưng trực thăng đã trực chỉ ra biển đông. Được biết quân sĩ tại Vùng 4 đã tiếp tục chiến đấu với quân thù, dù có lệnh buông súng của Dương Văn Minh. Họ chỉ buông súng tan hàng sau khi nghe tin các Tướng chỉ huy của họ là Trần Văn Hai (TL/SĐ7BB), Lê Văn Hưng (TLP/QĐ), và Nguyễn Khoa Nam (TL/QĐ) tuẩn tiết. Buổi chiều ngày 28.4, tại xứ Tân Sa Châu thuộc quân Tân Bình, Tướng Kỳ nói chuyện với những người Bắc Kỳ Di cư, những người đã một lần năm 1954, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ ruộng vườn, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy cộng sản vào Nam. Tướng Kỳ hô hào đoàn kết, cùng nhau chiến đấu chống bọn CSBV xâm lược. Khi nghe Tướng Kỳ tâm sự rằng ông sẽ ở lại chiến đấu cùng đồng bào đến giọt máu cuối cùng, ai ai cũng nức lòng. Ông còn khôi hài rằng qua Mỹ sẽ không có “mắm tôm để ăn”. Đồng bào đã hoan hô Tướng Kỳ hết mình. Một hy vọng mong manh đang nhen nhúm! Hay nói như cách nói qua lời của một bài hát: “Có Tin Vui Giữa Mùa Tuyệt Vọng”.

Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bàn giao lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cũng đệ đơn lên Tổng Thống Tân nhiệm xin nghỉ việc. Nhưng Tổng Thống Huơng vẫn lưu nhiệm, và ông chỉ ký Sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Viên trước khi bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận được cử thay thế. Nhưng Tướng Khuyên cũng rời bỏ nhiệm sở buổi trưa ngày 29.4. Các Tướng có chức có quyền bắt đầu rời bỏ nhiệm sở, tìm cách trốn chạy trước khi quân CSBV vào đến Sài Gòn. Lúc đó tại Sài Gòn, vị sĩ quan cao cấp nhất và thâm niên là Trung tướng Vĩnh Lộc, liền được Tổng thống Dương Văn Minh mời giữ chức TTMT đang bỏ trống. Đồng thời cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (sau này được biết Hạnh đã bị VC móc nối) được gọi tái ngũ, giữ chức Phụ tá TTMT cho Tướng Vĩnh Lộc. Vừa nhận chức TTMT, Tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp tại Bộ TTM, yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”. Tướng Vĩnh Lộc điện thoại về Vùng 4, nói chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, bàn kế hoạch đưa Chính phủ hoặc những nhân vật đầu não về Miền Tây. Dưới quyền của Tướng Nam, còn nguyên vẹn các Sư đoàn 7, 9, 21, Không Quân, Hải Quân, lực luợng ĐPQ và NQ. Tướng Lộc liên lạc với Tư lệnh Không Quân và Tư lệnh Hải Quân cùng lên đài Truyền hình, nhưng không thực hiện được. Trong cố gắng cuối cùng, ông ban Nhật lệnh kêu gọi quân sĩ tiếp tục chiến đấu, miệt thị đám tướng lãnh và sĩ quan bỏ ngũ, rời nhiệm sở là “những con chuộc nhắt!” Nhưng lối 6 giờ sáng ngày 30.4, cùng với Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, cũng đã tìm đường di tản, cũng làm “những con chuột nhắt”.

Lúc tôi đến căn phòng nhỏ nằm sát đàng sau Văn phòng Tư lệnh, Tướng Đảo đang dùng cơm chiều. Ông ngồi đó, cô đơn, ăn cơm một mình. Một Trung úy Pilot ngồi cạnh đang đọc báo. Các vị Đại tá, gồm Nguyễn Văn Mai, TLP/SĐ, Huỳnh Thao Lược, TMT/SĐ, Hứa Yến Lến, TMP/HQ & TV, Dương Phún Sáng, Chánh Thanh Tra, đều đứng. Không ai nói gì, chỉ im lặng.  Không khí trầm lắng. Có lẽ các vị vừa họp bàn xong. Đâu ngờ đây là cuộc họp cuối cùng của các vị. Trên khuôn mặt, ai ai đều mang nặng nét ưu tư. Một lúc sau, các vị đều rời khỏi phòng đi đâu đó. Giờ đây chỉ còn lại Tướng Đảo, viên Phi công trực thăng và tôi. Ông mời tôi dùng cơm. Tôi từ chối. Ông khui chai rượu Tây mời uống. Khui hộp bánh Lubico mời ăn. Tôi hỏi khẻ vị Trung úy:

-          “Chỉ một mình anh thôi sao?”

-          “Vâng, ông Tướng có thể làm co-pilot.”

Tướng Tư lệnh hỏi han tình hình của đơn vị, nhất là tinh thần quân sĩ. Tôi cứ tình thật trình bày. Sau cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc, là đơn vị rút ra cuối cùng, phải đơn độc chiến đấu không có không quân và pháo binh yểm trợ, phải chống chỏi trước một lực lượng địch đông gấp bội, bị thiệt hại nhiều, tinh thần căn thẳng, thể xác rã rời, chưa lấy lại sức. Thật ra những người lính của tôi đã chịu đựng quá nhiều. Là một trong những đơn vị có thành tích chiến đấu dũng mãnh trong Sư đoàn, nhiều lần Tiểu đoàn tôi đã nhận lãnh những nhiệm vụ khá nặng nề, và luôn luôn đã hoàn thành xuất sắc. Vì lẽ đó, con số thương vong thường cao. Nhưng người lính QLVNCH vẫn “xem Thái sơn nhẹ tựa hồng mao!” Vào những ngày như những ngày hôm nay, những ngày của giờ thứ 25 cuộc chiến, đơn vị nằm sát đuờng Quốc lộ, chứng kiến hàng đoàn người dân di tản, và tin tức lan truyền từ Sài Gòn, rằng đã có nhiều người bỏ nước ra đi, trong đó không ít các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp. Con đường QL1 từ Kẻ Sặt đến cầu Đồng Nai, đi ngang qua BTL/SĐBB từ mấy ngày qua trở nên chật hẹp. Người nguời gồng gánh, xe ba-gác, xe lam, xe ngựa, xe trâu, xe bò, và xe vận tải, chất đầy người và hành lý, vội vàng xuôi về Sài Gòn. Hình như Sài Gòn là nơi mà mọi người dân tị nạn chiến cuộc có thể nương náu an toàn. Tình hình xáo động. Người lính chiến từ nhiều tháng nay không có tin tức gì về gia đình. Nhưng “Việc công là trọng, niềm tây sá nào”. Quân sĩ của tôi, hầu hết vẫn ở lại chiến đấu. Tinh thần không nao núng! Dù là chiến đấu một cách vô vọng! Họ ở lại, bởi vì các cấp chỉ huy trực tiếp của họ vẫn còn ở lại. Yếu tố quan trọng nhất, vị anh cả của họ, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo vẫn còn ở lại. Buổi chiều trong cuộc họp tại Bộ Tư lệnh, tôi là sĩ quan tác chiến, không phải tham mưu nên không tham dự, chỉ nghe kể lại, rằng ông Tướng đã khẳng định cùng thuộc cấp, rằng ông sẽ không đi đâu cả, rằng ông sẽ ở lại chiến đấu sát cánh cùng anh em. Vợ con ông cũng ở lại, gia đình ông không ai bỏ đi.

Ông khuyên tôi cố gắng giữ Long Bình. Nếu giữ được Long Bình thì Long Bình là của mình! Ông nói: “Một Phái đoàn của Chính phủ do Giáo sư Bùi Tường Huân, Bộ trưởng Quốc Phòng của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã đi gặp đối phương tại một nơi nào đó trên xa lộ Đại Hàn, để bàn chuyện ngưng bắn “da beo”. Sau này được biết, Phái đoàn của Bùi Tường Huân đã bị cộng quân giữ lại, bị bắt làm con tin. Dương Văn Minh bị lừa. Nhà Sư Thích Trí Quang đã bị lừa. Để rồi cả Miền Nam bị lừa.

Ăn cơm xong, ông Tướng đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ, có điện thoại bàn. Ông gọi vào Dinh Độc Lập xin gặp Đại tá Đẩu, Tùy viên của Tổng Thống. Nhưng người trả lời trong máy tự xưng là Trung tá, hình như tên Thọ, Phó Tùy viên. Trung tá Thọ cho biết, hiện Tổng Thống đang chủ tọa cuộc họp Nội Các. Tướng Đảo trình bày tổng quát tình hình, và xin lệnh Tổng Thống được đưa Sư đoàn 18BB về thiết lập tuyến phòng ngự bên bờ Nam sông Đồng Nai để ngăn chận địch từ hướng Đông. Phía Bắc và Tây Bắc có Sư đoàn 5 của Tướng Lê Nguyên Vỹ, và Sư đoàn 25 của Tướng Lý Tòng Bá, phía Nam có Sư đoàn 22 của Tướng Phan Đình Niệm. Với lực lượng phòng thủ như vậy, chúng ta có thể giữ được Sài Gòn. Cuộc điện đàm kết thúc với lời hứa của Trung tá Thọ, rằng sẽ trình lại với Tổng Thống và sẽ liên lạc với Tuớng Đảo cho biết quyết định. Được biết sau khi nhậm chức Tổng Thống, Dương Văn Minh đã bổ nhiệm Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng, và cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (đã giải ngũ), làm Phụ tá TTMT. Nhưng Tướng Vĩnh Lộc vừa mới nhậm chức chưa hiểu rõ tình hình. Tướng Tư lệnh Quân đoàn thì đã bỏ nhiệm sở. Do đó Tướng Đảo phải làm việc trực tiếp với Dinh Độc Lập, vì Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH.

Được biết, vào những ngày cuối cùng, Đại tướng Vanuxem của Pháp có mặt ở Sài Gòn, thường vào ra Dinh Độc lập. Chính vị tướng này đã khuyên Tổng Thống Dương Văn Minh cố gắng để cho quân đội cầm cự thêm 48 tiếng đồng hồ thì sẽ có giải pháp chính trị có lợi cho VNCH. Theo Tướng Vanuxem, nếu có lời yêu cầu, quân Trung cộng sẽ tràn vào Bắc Việt, áp lực CSBV ngừng tấn công. Một giải pháp chính trị có lợi cho VNCH sẽ được thi hành. Nhưng Tổng Thống Dương Văn Minh đã từ chối. Ông chỉ tin Thầy Thích Trí Quang, là người môi giới để ông tiếp xúc và đàm phán với “người anh em phía bên kia”. Nhưng khi Phái đoàn đàm phán do Giáo sư Bùi Tường Huân (Bộ trưởng Quốc phòng) cầm đầu, ra xa lộ Đại Hàn gặp VC, thì bị VC giữ lại làm con tin. Sau nhiều lần thúc dục Thầy Trí Quang không kết quả, Dương Văn Minh tuyệt vọng, đã than: “Thầy hại con rồi!”

Trở lại bàn ăn, Tướng Đảo cho biết, lối 12 giờ khuya nay, BTL/SĐ sẽ dời về Thủ Đức. Trung đoàn 43BB và Trung đoàn 52 vẫn ở lại Long Bình. Một lần nữa ông khuyên tôi cố gắng giữ cho được Long Bình. Tôi chỉ dám hứa là làm hết sức mình.

 Gặp Tướng Tư lệnh xong, tôi lại được lệnh đi gặp Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu. Đó là cuộc họp mặt cuối cùng, trong buổi chiều cuối cùng của tôi với các đơn vị trưởng bạn. Chỉ có hai Tiểu đoàn trưởng là tôi, 2/43, và Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, 3/43. Tiểu đoàn trưởng 1/43 được ghi nhận là mất tích, trong một trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom sáng nay. Được biết Thiếu tá Dư bị bọn “cách mạng 30” dùng búa đánh chết tại nhà ở Vũng Tàu, sau ngày tan hàng 30.4. Sau khi nghe tôi trình bày chỉ thị tôi vừa nhận trực tiếp từ Tướng Tư lệnh, Đại tá Hiếu đưa ra hai kế họach:

1.      Kế hoạch Alpha: Tiểu đoàn 2/43 thi hành theo chỉ thị nhận trực tiếp từ Tướng TL Lê Minh Đảo.

2.      Kế hoạch Bravo: Tiểu đoàn 2/43 sẽ di chuyển qua bên kia sông Đồng Nai, lập tuyến phòng ngự từ cầu Đồng nai đến cầu Ghềnh, dọc theo bờ Nam con sông.

Đúng 12 giờ đêm, trực thăng Tư lệnh cất cánh. Tiếp theo sau đó là BTL với các phòng ban, cùng các đơn vị kỹ thuật và tiếp vận thuộc BTL bắt đầu di chuyển. Được biết, Tướng Đảo đã hoàn trả chiếc trực thăng về cho Sư đoàn 3/KQ. Ông đã di chuyển bộ cùng binh sĩ qua ngã cầu Ghềnh. Đây là lần thứ hai Tướng Tư lệnh đi bộ cùng binh sĩ khi triệt thoái. Lần thứ nhất là đêm 20 rạng ngày 21.4, Tướng Đảo đi bộ cùng binh sĩ trong cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa. Đây là cuộc triệt thoái thành công nhất. Sự hiện diện của vị Tướng Tư lệnh, cùng di chuyển bộ với binh sĩ là yếu tố thiết yếu cho sự thành công. Một lần nữa, Tướng Đảo lại di chuyển bộ trên đường triệt thoái.

Lúc gần sáng, tôi nhận lệnh thi hành “Kế hoạch Bravo”. Đơn vị rời Long Bình, di chuyển qua hướng cầu Đồng Nai. Vài chiếc xe tăng địch xuất hiện. Chúng nổ súng một lúc, rồi lại trở lui. Đoàn quân tiếp tục di chuyển. Toán tiền phương đã đến cầu. Nhưng đơn vị bảo vệ cầu chận lại, không cho đi qua. Tôi phải cho lệnh đổi hướng qua ngã cầu Ghềnh. Khi toán quân cuối cùng qua khỏi cầu thì trời đã hừng sáng. Tôi gặp BCH Trung đoàn đang dừng chân trên đoạn đường dốc gần cầu. Theo kế hoạch đã định, Tiểu đoàn bắt đầu rải quân, thiết lập chiến tuyến. Tôi đặt BCH/Tiểu đoàn trong một khu vườn có vòng rào bao quanh. Đơn vị cuối cùng là Đại đội 2/2 của Đại úy Võ Văn Mười cũng bắt đầu rải quân. Nhưng nhìn về hướng cầu Đồng Nai, cách xa vài trăm mét, không tin vào mắt mình, xe tăng và xe chở quân CSBV đang di chuyển trên xa lộ. Chúng đã vượt qua cầu. Cây cầu vẫn còn đứng nguyên! Tại sao cây cầu không bị giật sập? Đơn vị bảo vệ cầu đã biến đi đâu? Tối hôm qua Tướng Đảo cho biết tất cả các cây cầu bắt qua sông Đồng Nai, gồm cầu Đồng Nai, cầu Ghềnh và cầu Mới đều đã được công binh đặt mìn. Cầu sẽ bị đánh sập, nếu cộng quân tiến qua cầu. Nhưng sự việc đã không xảy ra. Sau này được biết chính tên phản tướng Nguyễn Hữu Hạnh, với tư cách Quyền TTMT đã cấm không cho giựt sập cầu, để cho bộ đội CSBV thuận lợi tiến chiếm Sài Gòn. Đây là thành tích “dâng Bác và Đảng” mà tên Hạnh đã khoe trong một bài phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ cách đây vài năm, nhân dịp kỷ niệm “Đại thắng Mùa Xuân” của CSBV.

Một đoàn chiến xa quân CSBV, gồm T-54, PT-76, xen lẫn những chiếc Molotova chở đầy bộ đội đang di chuyển trên xa lộ hướng về Sài Gòn. Được biết đó là quân của Tướng Nguyễn Hữu An, Chỉ huy Quân đoàn 2/CSBV được lệnh đưa bộ đội của hắn, “hợp đồng” cùng 4 cánh quân khác, tiến nhanh về Sài Gòn. Theo kế hoạch ban đầu của “Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh”, quân của Tướng Hoàng Cầm, Chỉ huy Quân đoàn 4/CSBV sẽ tiến về Sài Gòn. Nhưng 12 ngày chạm trán Sư đoàn 18BB, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Quân đoàn 4/CSBV bị tử vong hơn 6 ngàn bộ đội, và 37 chiếc xe tăng bị phá hủy. Chỉ huy sở Sư 341 và các đơn vị “tập kết”, chuẩn bị tiến về Biên Hòa, bị hai trái bom BLU-82 đánh trúng, hơn 10 ngàn bộ đội bị loại ra khỏi vòng chiến, nên không còn khả năng tác chiến. Một sĩ quan bị bắt khi đơn vị bị quân CSBV tràn ngập, trong trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom buổi sáng ngày 29 cho biết:

“Khi bị áp giải đến gặp tên “Thủ trưởng E” (Trung đoàn trưởng), hắn nói: “May mà anh gặp chúng tôi. Nếu anh bị đơn vị kia bắt (ý hắn muốn nói các đơn vị thuộc Sư 341) thì đã bị giết ngay tại chỗ.” 

Thấy còn vài chiếc lẹt đẹt chạy sau, tôi cho lệnh nổ súng. Lối 4 chiếc xe tăng dừng lại, quay nòng súng hướng về chúng tôi nổ súng. Những tràng đại liên 12.8 ly ào ào xối xả, nhưng không lâu. Rồi 4 chiếc xe đó lại quay đầu xe hướng về Sài Gòn, tiếp tục chạy. Chúng cố chạy nhanh cho kịp đoàn quân đang hung hăng hướng về Sài Gòn.

Tôi tự hỏi, nếu đơn vị giữ cầu Đồng Nai để cho Tiểu đoàn tôi qua cầu, nếu đơn vị tôi đã vào vị trí trước khi cộng quân qua cầu, nếu cầu Đồng Nai bị đánh sập thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng trang sử đã lật. Những trang sử oai hùng của quân và dân VNCH đang lùi dần vào dĩ vãng. Một trang sữ mới đầy đau thương và nước mắt đang ghi lại biết bao nỗi ô nhục của người dân Việt do bọn cầm quyền ngu dốt ngự trị tại “Bắc Bộ Phủ” cam tâm làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.

Buổi chiều cuối cùng kéo dài đến 11 giờ 30 trưa hôm sau, ngày 30.4. Tiếp theo là bóng đêm. Bóng đêm đã đổ ập xuống trời Nam. Đã 38 năm qua, hừng đông vẫn chưa ló dạng./

Michigan, Mùa Tuyết năm 2013.

BẢO ĐỊNH

 

2.    NHỚ VỀ XUÂN LỘC 

Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết,

Như một vành tang bịt đất trời

Chân theo quân rút, hồn ta ở,

Sông nước La Ngà pha máu sôi.

(Nguyễn Phúc Sông Hương – Nửa hồn Xuân Lộc)

 

Sau thời gian đầu sống cuộc đời lưu vong tỵ nạn cộng sản tại quê người, phải bươn chải lo cuộc mưu sinh, cuộc sống dần dần ổn định. Những cựu chiến binh Sư đoàn 18 bộ binh, cũng như các cựu chiến binh của các quân binh chũng khác của QLVNCH, đã nghĩ đến các bạn đồng đội của mình còn sống lây lất tại quê nhà, nhất là các Thương Phế Binh và Cô nhi Quả phụ. Những lần họp mặt, lúc thì ở vùng Orange County, lúc thì ở San José của California, Hoa Kỳ. Họ họp mặt không ngoài mục đích gặp gở hàn huyên tâm sự, nhắc lại chuyện xưa, nhớ lại một thời vẩy vùng ngang dọc trên con đường BẢO QUỐC – AN DÂN. Và luôn luôn họ vẫn nhớ những đồng đội cũ chẵng may trở thành tàn phế, sống cuộc đời tủi nhục và xa lạ ngay chính trên quê hương của mình. Kẻ ít người nhiều, họ gom góp lại, và cổ động đồng hương. Số tiền đóng góp và quyên được đã gửi trực tiếp đến các TPB/SĐ18BB ở quê nhà. Dù ít dù nhiều, cũng là tấm lòng của người đi, của đồng đội đã một thời vào sinh ra tử.

Năm nay, 2009, cuộc hội ngộ gia đình 18 được tổ chức tại Úc. Tuy đường xa diệu vợi, phải ngồi máy bay trên 20 tiếng đồng hồ, nhưng phái đoàn từ Mỹ châu cũng cố gắng về tham dự tương đối hùng hậu. Trưởng phái đoàn là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Tháp tùng Hằng Minh ( danh hiệu truyền tin, tên gọi thân thương mà các cựu chiến binh Sư đoàn 18 vẫn gọi người anh cả của mình) là anh chị Lê Văn Trang ở Canada, anh chị Bảo Định Nguyễn Hữu Chế (cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ2/43), anh chị Hạnh & Lan ở Holland (Michigan), anh chị Bình ở Connecticut. Tưởng cũng nên nhắc, Hằng Minh là tên cố Trung Tá Lê Hằng Minh, Tiểu đoàn trưởng TĐ2/TQLC, tức Tiểu đoàn Trâu Điên lừng danh. Trung Tá Lê Hằng Minh cùng tiểu đoàn của ông bị VC phục kích trên đoạn đường giữa Huế và Quảng Trị. Tiểu đoàn đã phản phục kích thành công, nhưng người hùng Lê Hằng Minh và một số chiến sĩ mũ xanh anh dũng đã nằm lại trên con đường oan nghiệt mà nhà báo Pháp Bernard B. Fall gọi là Con Đường Không Vui (La Rue Sans Joie). Tướng Đảo lấy tên Hằng Minh dùng làm danh hiệu truyền tin của mình để tưởng nhớ một người em “Anh Hùng” đã đền xong nợ nước, và cũng để nhắc nhở mình phải xứng đáng với danh hiệu đó.

Chương trình hội ngộ được các cựu chiến binh 18 tại Úc do chiến hữu Hoàng Lập Chí, Trưởng ban tổ chức (thuộc TĐ1/48, một luật sư trẻ, rất năng động), và các đồng đội cùng thân hữu lên kế hoạch rất tỉ mỉ. Chương trình được tổ chức hai ngày:

Dạ tiệc “Nhớ về Xuân Lộc” vào lúc 7 giờ tối ngày Thứ Sáu, 7 tháng 8 năm 2009 tại nhà nhà hàng Crystal Palace, Canley Vale Road, Canley Heights, NSW 2166, được đồng hương và cựu quân nhân QLVNCH tham dự đông đảo. Các Chiến hữu Phạm Quang Ngọc (SQ Tài chánh Trung đoàn 43), Đổ Trung Chu (cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ1/43), Lê Văn Lệ (Trưởng ban 4 Trung đoàn 43), Bác sĩ Tấn, Nha sĩ Sơn, Dược sĩ Thạnh thuộc Tiểu đoàn 18 Quân Y,… cùng tất cả các nàng dâu, con cháu và bạn hữu Sư đoàn 18 đã cùng nhau, mỗi người một tay, tổ chức thành công Đêm Dạ tiệc gây quỹ yểm trợ TPB Sư đoàn 18BB, Mặt trận Xuân Lộc và QLVNCH còn sống lây lất tại quê nhà.

- Buổi nói chuyện chủ đề “Vị trí Trận chiến Xuân Lộc trong Quân sử VNCH” vào lúc 2 giờ đến 5 giờ chiếu ngày Thứ Bảy, 8.8.09 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng NSW (Bibbys Road, Bonnyrigg, NSW 2177). Trong số quan khách, có sự hiện diện của Chiến sĩ Võ Đại Tôn, ông cựu Đại sứ VNCH Đoàn Bá Cang, Chiến hữu Mai Đức Hòa (Chủ tịch Tổng hội CQN Úc Châu), Chiến hữu Trương Công Hải (Chủ tịch Hội CQN/NSW), Luật sư Võ Trí Dũng (Chủ tịch CĐ/NVTD/NSW), Luật sư Võ Minh Cương, Ông Tô Ngọc Kim, Luật sư Lưu Tường Quang (cựu Giám đốc SBS Radio Australia), quí vị đại diện các Hội đoàn, Đoàn thể, các cơ quan truyền thông Việt Ngữ, Nghị viên trẻ thành phố Fairfield Trần Nhân (cũng là con chim đầu đàn thuộc lực lượng Hậu Duệ VNCH tại Úc Châu), các em Hậu Duệ, và khoảng trên 400 đồng hương tham dự.

Ngoài ra báo chí Việt Ngữ và các đài phát thanh (Quốc Việt của SBS Radio, Tường Vân, Minh Trí, Phạm Cường của Phát Thanh Hậu Duệ, Ngọc Hân của đài VOA)   đã phỏng vấn và đưa tin về cuộc Hội Ngộ của Gia đình 18 tại Úc Châu, làm cho bầu không khí vốn trầm mặc của xứ Kangaroo đang giữa mùa Đông lạnh giá trở nên ấm áp sôi động. 

SƯ ĐOÀN 18 BỘ BINH & TRẬN CHIẾN XUÂN LỘC

Vào những ngày cuối của VNCH, tình hình thật hổn loạn. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ mọi phía, buộc phải từ chức vào buổi chiều ngày 21/4/75. Cũng thời gian này, Sư đoàn 18BB đã được lệnh rời bỏ Xuân Lộc về Biên Hoà.

“Các ông phải nói cho thế giới biết sự chiến đấu anh dũng và thắng lợi của SĐ18BB. Các ông phải nói để cho Chính phủ Mỹ thấy mà hỗ thẹn vì đã bỏ rơi một đồng minh như Việt Nam”.

Trên đây là lời kể lại của Luật sư Lưu Tường Quang, cựu Giám đốc đài SBS, Australia, nhân buổi Dạ tiệc “Nhớ Về Xuân Lộc”. Luật sư Quang là cựu Quyền Tổng Thư ký Bộ Ngoại Giao VNCH, được lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, triệu tập Ngoại giao đoàn đến Bộ Ngoại giao vào buổi sáng ngày 21.4.75 để thông báo về việc từ chức của Tổng Thống. Trước khi ra về, vị Đại sứ Anh Quốc đã dừng lại, nói với Luật sư Quang lời tâm tình chân thật.

TRẬN CHIẾN MỞ MÀN

34 năm về trước, vào lúc 5 giờ 40 phút sáng ngày 9/4/75, quân CSBV thuộc Quân đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm đồng loạt mở cuộc tấn công vào thị xã Xuân Lộc và thị trấn ngã ba Dầu Giây, phòng tuyến ngăn chận quân xâm lăng CSBV đang tràn vào từ miền Trung theo QL1, và Cao Nguyên theo QL20. Quân đoàn I & II/QLVNCH thua trận nhanh chóng. Quân xâm lăng tiến công như vũ bão, chúng tràn qua Vùng 1 & 2 như đi vào chỗ không người. Cuộc tiến quân quá dễ dàng đến đổi Văn Tiến Dũng, tên Đại tướng CSBV, chỉ huy đạo quân xâm lăng đã huyênh hoang khoác lác: “Cán bộ và chiến sĩ tham mưu không vẻ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội”.

Nhưng đạo quân xâm lăng của Tướng Dũng đã bị chận lại ngay tức khắc khi chúng đánh “cấp tập” vào Sư đoàn 18BB tại Xuân Lộc. Bởi vì chúng đã đụng phải bức tường thép: “Tuyến Thép Xuân Lộc”.

Vào những ngày của tháng 3/1975, sau khi thất thủ Phước Long (6/1/75), mất Ban Mê Thuột (10/3/75), bỏ Đà Nẵng (30/3/75), tình hình chiến sự tại Vùng 3 bắt đầu sôi động. Bọn đầu lĩnh Bắc Bộ Phủ thông qua kế hoạch thôn tính miền Nam Việt Nam trong hai năm (1975-1976). Theo kế hoạch của Bộ Chính Trị Cộng Đảng, năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, Giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhưng cuộc lui binh thất bại của Quân đoàn II trên Liên Tỉnh lộ 7B, và “lệnh lạc” giữ hay bỏ Huế và Đà Nẵng không dứt khoát rõ ràng, khiến Vùng 1 đã hoàn toàn rơi vào tay CSBV một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày (19-30/3/75), chỉ vì kế hoạch lui binh cũng thất bại như ở Quân đoàn II. Sau khi Phan Rang, tuyến phòng thủ xa nhất bị thất thủ ngày 16/4/75, Xuân Lộc được lệnh bỏ ngõ ngày 21/4/75, ngày 26/4/75, CSBV đã không chờ đến năm 1976, chúng bắt đầu mở chiến dịch gọi là Chiến dịch Hồ Chí Minh, để nhanh chóng thôn tính toàn bộ miền Nam.

Nửa đêm ngày 17 rạng ngày 18/3/75, Sư 7/CSBV được tăng cường 10 chiếc xe tăng, tung Trung đoàn 141 tấn công khu vực trung tâm Định Quán, một quận cực Bắc của tỉnh Long Khánh, Trung đoàn 209 tấn công vị trí đóng quân của các đạị đội thuộc Tiểu đoàn 2/43 do Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, nằm bên ngoài thị trấn (đơn vị này từ Xuân Lộc, mới di chuyển đến đây chiều ngày hôm trước). Quá trưa ngày 18.4, quân CSBV chiếm Quận đường, Thiếu tá Quận Trưởng bị bắt, căn cứ Đại đội 377/ĐPQ nằm trên điểm cao thất thủ, các đồn bót Nghĩa Quân cũng cùng chung số phận. Thị trấn Định Quán mất. Trên đà thắng lợi, quân CSBV tập trung lực lượng dứt điểm TĐ2/43. Đơn vị này phải rút chạy dài về cầu sông La Ngà, rồi về hậu cứ  tiểu đoàn tại Núi Thị để bổ sung quân số và tái trang bị. Căn cứ cấp Tiểu đoàn ĐPQ của Thiếu tá Làu Vĩnh Quay đóng giữ cầu sông La Ngà cũng bị giặc chiếm vào ngày hôm sau. Đoạn đường này của QL20 cho đến Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng đã lọt vào tay giặc. Trong lúc đó quận Hoài Đức thuộc tỉnh Bình Tuy gồm các xã Võ Đắc, Võ Su và Sùng Nhơn cũng bị Cộng quân tấn công mạnh. Các đơn vị ĐPQ, NQ và Tiểu 3/43 của Thiếu tá Nguyễn Văn Dư cũng phải rút chạy. Giờ đây Xuân Lộc trở thành điểm địa đầu của Tổ quốc, ngăn chặn giặc tràn vào từ phương Bắc. Tuyến phòng thủ từ xa Phan Rang do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chịu trách nhiệm mất vào chiều ngày 16.4.75, vị chủ soái cùng một số cấp chỉ huy cao cấp bị bắt. Tiếp theo là Phan Thiết và Bình Tuy cũng liên tiếp lọt vào tay giặc.

TUYẾN THÉP XUÂN LỘC

Không một ai nghĩ rằng những người lính Miền Đông mang phù hiệu “Cung Tên”, đã đánh một trận để đời, đã viết nên một trang sử vẻ vang cho Quân sử VNCH, đã đánh cho Cộng quân thua xiểng liểng. Mặc dầu trong quá khứ, Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi, trái lại từng bị đánh giá là một trong các sư đoàn kém khả năng của QLVNCH. Nhưng kể từ mùa hè đỏ lửa năm 1972, sư đoàn được đặt dưới quyền Đại tá Tư lệnh Lê Minh Đảo, một sĩ quan trẻ, năng động, thông minh và nhiều mưu lược, nhất là biết cách lãnh đạo chỉ huy. Trung tướng Phillip B. Davidson của Quân Lực Hoa Kỳ, qua kết quả của trận chiến Xuân Lộc, đã có nhận định thích đáng như sau: “The battle for Xuan Loc produced one of the epic battles of any of the Indochina wars, certainly the most heroic stand in Indochina War III…In this final epic stand ARVN demonstrated for the last time that, when properly led, it had the ‘right stuff.’”

Tên Thái Thượng Hoàng Triều đình đỏ Bắc Việt Lê Đức Thọ phải thú nhận: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra…”

Văn Tiến Dũng, tên chỉ huy đạo quân xâm lược than: “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc của QĐ4 lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh này…”

Trần Văn Trà, tên chỉ huy quân “Giải Phóng Miền Nam” cũng bắt chước đàn anh than: “Các báo cáo cho biết các mũi tiến triển tốt…Nhưng vào cuối ngày 10.4.75 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản công điên cuồng…Máy bay địch đánh phá ác liệt…tình hình rất gay go. Các đồng chí Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ, rất lo lắng khi thấy địch càng tập trung thêm lực lượng và ta có vẻ khựng lại…hoặc bị đẩy lui”.

Sau ba ngày tấn công vào Xuân Lộc và ngã ba Dầu Giây, các Sư 6, 7 và 341 thuộc Quân đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm đã không làm nên “cơm cháo” gì, bị Sư đoàn 18BB chận lại, bị thiệt hại nặng, phải tăng cường thêm Trung đoàn 95B, và điều thêm Sư đoàn 325 vào mặt trận. Chiều ngày 11.4.75, tại Lộc Ninh, Thủ phủ của cái gọi là “Chính phủ Cộng hoà Lâm thời miền Nam Việt Nam”, bọn đầu lĩnh trong đạo quân xâm lược gồm Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, và Trần Văn Trà họp khẩn cấp để đề ra phương án mới. Chúng quyết định thay đổi kế hoạch ban đầu, xử dụng Quân đoàn 4 của Cầm đánh cầm chân Xuân Lộc, còn đại quân sẽ đi vòng qua Hàm Tân, dọc theo bờ biển, rồi theo QL15 tiến lên đánh thẳng vào Biên Hòa. Cánh quân từ Cao Nguyên sẽ tiến xuống theo QL20. Nhưng trước hết phải tiêu diệt cho được Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng đang lập tuyến phòng thủ tại ngã ba Dầu Giây. Theo nhận định của bọn chúng, đây là điểm yếu trong tuyến phòng ngự liên hoàn. Thực tế cũng như vậy. Bởi vì CĐ52 đã xuất phái Tiểu đoàn 2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út cho Xuân Lộc ngay từ buổi tối ngày 10.4. Cho nên khi quân của Tướng Cầm được tăng cường thêm Trung đoàn 95B, chúng đã có cơ hội đánh dứt điểm tuyến phòng ngự của CĐ52 vào chiều ngày 15.4. Trong lúc đó Trung đoàn 8, SĐ5BB của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng bị cầm chân tại Hưng Lộc và Hưng Nghĩa, cách ngã ba Dầu Giây lối 3 cây số. Lữ đoàn 3 Xung kích của Tướng Khôi gồm mấy trăm chiếc chiến xa và mấy Tiểu đoàn Biệt Động Quân tùng thiết cũng không thể nào phá được nút chận của địch để ra giải cứu CĐ52 đang nguy khốn. Kết quả CĐ52 bị thiệt hại nặng, phải rút chạy về Biên Hòa. Chiến đoàn 52 bị thua trận, nhưng Xuân Lộc vẫn đứng vững, nhất là sau khi được tăng viện thêm Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh vào chiều ngày 12.4. Từ bị động chống đở, quân trú phòng bắt đầu mở những cuộc phản công truy kích địch.

Tại mặt trận Xuân Lộc, ngoài yếu tố quyết định là vị Tướng Tư lệnh mặt trận có tài thao lược, cấp chỉ huy can trường và gần gủi binh sĩ, và hơn hết là tinh thần quyết chiến quyết thắng của người lính. Nhưng việc thành bại của một trận chiến, Pháo yểm và Không yểm vẫn đóng vai trò then chốt. Hai trái bom BLU-82 được thả xuống chỉ huy sở và hậu cần của Sư đoàn 341/CSBV, sau khi Dầu Giây thất thủ, đã bị Hà Nội la hoảng vì đã gây thiệt hại cho chúng rất nhiều (nhưng rất tiếc, không có cơ hội để kiểm chứng chính xác mức độ thiệt hại.)

Sau khi tiến quân như thế chẻ tre từ Vùng 1, Vùng 2, và đè bẹp tuyến phòng thủ địa đầu Vùng 3 (Phan Rang), đạo quân xâm lăng của Tướng Văn Tiến Dũng đã bị chận đứng tại Xuân Lộc, chúng đã đụng phải bức tường thép: TUYẾN THÉP XUÂN LỘC.  Tuyến thép dược dựng lên do những chiến binh Sư đoàn 18BB, ĐPQ & NQ Long Khánh, các chiến sĩ mũ nâu của Tiểu đoàn 82/BĐQ, mũ đỏ của Lữ đoàn 1 Dù. Mười hai ngày đêm tấn công Xuân Lộc là 12 ngày đêm thảm bại của đạo quân xâm lược. Quân CSBV bị giết tại trận trên 6 ngàn tên, 37 xe tăng và xe bọc thép bị bắn cháy. Tổn thất của quân bạn được xem là nhẹ, chỉ có CĐ52 (-) của Đại tá Dũng và TĐ2/43 của Thiếu tá Chế là bị thiệt hại nhiều nhất, lối 50% quân số.

Tháng 7 năm 1954 Pháp thua Việt Minh tại trận Điện Biên Phủ đưa đến việc qua phân đất nước. Tháng 4 năm 1975, CSBV thua QLVNCH tại trận Xuân Lộc, nhưng thắng lớn trên khắp các mặt trận, đưa đến nước VNCH bị xóa tên trên bản đồ thế giới, QLVNCH không còn. Nhưng trận chiến Xuân Lộc đã ghi lại một nét vàng son chói lọi trong quân sử VNCH. Xuân Lộc là trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh Quốc Cộng kéo dài trong hai mươi năm. Nhưng là một trận chiến thắng vẻ vang, là niềm tự hào có được của quân và dân VNCH, khiến kẻ địch khiếp sợ và đồng minh phải nể phục.

NHỚ VỀ XUÂN LỘC không phải chỉ để hoài niệm suông, để hãnh diện một chiến thắng đã đi vào dĩ vãng, đang bị lãng quên theo năm tháng, mà để nhắc nhở chúng ta, những người còn sống, thế hệ trẻ, thế hệ mai sau, phải làm thế nào để xương máu của các chiến sĩ đã đổ xuống Mặt Trận Xuân Lộc không vô nghĩa./.

Michigan, ngày 17 tháng 8 năm 2009

BẢO ĐỊNH 

(Hoài niệm về chuyến viễn du lần đầu tiên tại Australia, 31.7 – 15.8.09)

 

3.      VĨNH  BIỆT  NGƯỜI  HÙNG  XUÂN LỘC:

Thiếu  tướng  Lê Minh Đảo

Vào những ngày cuối của cuộc chiến tranh Quốc - Cộng, quân CSBV đã thắng lớn trên các mặt trận. Vùng 1/CT và Vùng 2/CT nhanh chóng rơi vào tay quân CSBV. Chúng xé bỏ hiệp định đình chiến Genève 1954, phân chia đất nước thành hai quốc gia riêng biệt. Miền Bắc là nước VNDCCH do đảng CS cai trị, và Miền Nam là nước VNCH do người Quốc gia cai trị; và xé bỏ hiệp định ngưng bắn Paris 1973. Chúng ngang nhiên vượt sông Bến Hải, tiến vào Miền Nam xâm lược VNCH. Do những tính toán sai lầm về chiến lược của giới chức cao cấp VNCH, và hậu quả sự bỏ rơi của người bạn đồng minh, các đơn vị thiện chiến của QLVNCH đã không giao chiến, mà cứ rút lui và rút lui. Quân xâm lăng CSBV đã tiến quân như thế chẻ tre. Nhưng khi vào đến Xuân Lộc, chúng đã đụng phải bức tường thép: “TUYẾN THÉP XUÂN LỘC”. Chúng đã bị chận đứng. Trận chiến kéo dài 12 ngày đêm. Quân xâm luợc CSBV đã bị thảm bại ê chề, với hơn 6 ngàn quân bị giết, 37 xe tăng bị tiêu diệt, và hàng chục tù binh bi bắt sống.

Người tạo nên chiến thắng Xuân Lộc là Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Xuân Lộc. Trong dân gian có câu: Mạnh quân, mạnh chi tướng. Nhưng thực tế, nếu không có Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy mặt trận, liệu QLVNCH có tạo nên được chiến thắng Xuân Lộc  lẫy lừng hay không?

Với chiến thắng Xuân Lộc, người hùng Xuân Lộc đã phải trả giá bằng 17 năm tù đày do phe thắng trận trả thù. Ông là một trong 4 vị Tướng được phe thắng trận thả ra sau cùng.

Trong một thời gian ngắn sau khi rời khỏi nhà tù, ông đã được Chính phủ Hoa Kỳ cho đến Mỹ tái định cư. Dù tuổi già sức yếu do những ngày tháng bị tù đày, nhưng vừa đặt chân đến đất nước Tư do, ông đã tìm cách gặp gở các đồng đội cũ, và cùng những chiến hữu tâm huyết, ông đi Âu châu, Úc châu và Canada vận động đồng độị để thành lập một tổ chức có thể đối trọng với chính quyền Hà Nội là Tập Thể Chiến sĩ VNCH Hải ngoại. Nhưng mộng ước không thành, cuối cùng ông rút ra khỏi tổ chức, nhưng vẫn đi đây đi đó họp mặt với các chiến hữu hầu hâm nóng khí thế đấu tranh chống CSVN.

“Sinh, Lão, Bệnh,Tử”,quy luật muôn đời không ai thoát được. Vào lúc 1 giờ 45 phút ngày 19 tháng 3 năm 2020, ông đã trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Hartford, Connecticut, U.S.A. Một ngày trước khi lìa trần thế, ông đã gặp mặt đầy đủ gia đình vợ con và người thân, và ông đã nói câu cuối cùng; “Ba chuẩn bị hành quân”.

Thật vậy, ông từng tâm sự, “Quân đội có thể bỏ tôi, nhưng không bao giờ tôi bỏ Quân đội.” Một người suốt đời gắn bó với Quân đội, đáng lẽ lá Cờ Vàng, lá cờ của Tổ quốc phải được phủ lên chiếc quan tài của Người Hùng Xuân Lộc, nhưng với bản tính khiêm nhường, ông đã để lại di chúc; “Trong tang lễ xin miễn lễ nghi quân đội, không có lễ phủ Quốc kỳ trên linh cữu vì người quá cố không được vinh dự hy sinh cho tổ quốc trên bãi chiến trường. Các bằng hữu đã tuẫn tiết, các chiến sĩ anh hùng, quí vị quân, dân, cán, chính VNCH đã hy sinh vào những giờ phút cuối cùng trong tháng Tư, 1975, đều không có dịp, mà cũng chẵng còn ai phủ quốc kỳ trong tang lễ.”